BÀI HỌC TÂN ƯỚC
Linh mục Carôlô Hồ Bặc XáiÐẠI CHỦNG VIỆN THÁNH QUÝ CẦN THƠ 1994
MỤC LỤC
Bài mở đầu: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ PHƯƠNG PHÁPBài chuyên môn: LỊCH SỬ HÌNH THÀNH TÂN ƯỚCBài 01: THIÊN SỨ TRUYỀN TIN CHO ĐỨC MARIABài 02: ĐỨC MARIA ĐI THĂM BÀ ISAVEBài 03: ĐỨC GIÊSU SINH RABài 04: DÂNG ĐỨC GIÊSU TRONG ĐỀN THỜBài 05: CÁC ĐẠO SĨ KÍNH BÁI ĐỨC GIÊSUBài 06: HÊRÔĐÊ TÀN SÁT CÁC HÀI NHIBài 07: ĐỨC GIÊSU Ở LẠI TRONG ĐỀN THỜBài 08: Gioan tiền hô dọn đườngBài 09: ĐỨC GIÊSU CHỊU THANH TẨYBài 10: ĐỨC GIÊSU LOAN BÁO TIN MỪNGBài 11: PHÉP LẠ ĐẦU TIÊN TẠI CANABài 12: PHÉP LẠ MẺ LƯỚI NHIỀU CÁBài 13: ĐỨC GIÊSU CHỌN 12 TÔNG ĐỒBài 14: ẨN DỤ VỀ NGƯỜI GIEO GIỐNGBài 15: ĐỨC GIÊSU DẠY CẦU NGUYỆNBài 16: ĐỨC GIÊSU TRỪ TÀ THẦNBài 17: ĐỨC GIÊSU THA TỘI VÀ CHỮA BỆNH CHO MỘT NGƯỜI BẤT TOẠIBài 18:.ĐỨC GIÊSU CHỮA BỆNH CHO ĐẦY TỚ VIÊN SĨ QUAN NGOẠI ĐẠOBài 19: CHỮA BỆNH CHO MỘT NGƯỜI LOẠN HUYẾT VÀ CỨU SỐNG CON GÁI ÔNG GIAIRÔBài 20: SÓNG GIÓ YÊN LẶNGBài 21: ĐỨC GIÊSU HÓA BÁNH RA NHIỀUBài 22: ĐỨC GIÊSU ĐI TRÊN MẶT NƯỚCBài 23: BÁNH TRƯỜNG SINHBài 24: ĐỨC GIÊSU ĐẶT PHÊRÔ LÀM ĐẠI DIỆN CỦA NGÀI Ở TRẦN GIANBài 25: ĐỨC GIÊSU BIẾN HÌNH Bài 26: DỤ NGÔN HAI NGƯỜI CẦU NGUYỆNBài 27: ĐỨC GIÊSU VÀ TRẺ NHỎBài 28: NGƯỜI MÙ THÀNH GIÊRICÔBài 29: ÔNG GIAKÊBài 31: DỤ NGÔN NGƯỜI CHA NHÂN LÀNHBài 32: ĐỨC GIÊSU VÀO THÀNH GIÊRUSALEMBài 33: ĐỨC GIÊSU THANH TẨY ĐỀN THỜBài 34: ĐỨC GIÊSU NÓI VỀ NGÀY TẬN THẾBài 35: BỮA TIỆC LYBài 36: ĐỨC GIÊSU CẦU NGUYỆN TRONG VƯỜN CÂY DẦUBài 37: ĐỨC GIÊSU BỊ BẮTBài 38: ĐỨC GIÊSU TRƯỚC CÔNG NGHỊBài 39: PHÊRÔ HỐI TỘI - GIUĐA TỰ TỬBài 40: ĐỨC GIÊSU TRƯỚC TÒA PHILATÔBài 41: ĐỨC GIÊSU BỊ HÀNH HẠBài 42: ĐỨC GIÊSU TẮT THỞBài 43: TÁNG XÁC ĐỨC GIÊSUBài 44: ĐỨC GIÊSU SỐNG LẠIBài 45: ĐỨC GIÊSU HIỆN RA VỚI CÁC TÔNG ĐỒBài 46: ĐỨC GIÊSU CHỌN PHÊRÔ LÀM THỦ LÃNH GIÁO HỘIBài 47: ĐỨC GIÊSU SAI CÁC TÔNG ĐỒ ĐI LOAN BÁO TIN MỪNG KHẮP THẾ GIANBài 48: ĐỨC GIÊSU LÊN TRỜIBài 49: THÁNH THẦN HIỆN XUỐNGBài 50: GIÁO ĐOÀN ĐẦU TIÊNBài 51: PHÓ TẾ STÊPHANÔ TỬ ĐẠOBài 52: PHÊRÔ RỬA TỘI CHO ÔNG CORNÊLIÔBài 53: ĐỨC GIÊSU CHỌN SAOLÔ LÀM MÔN ĐỒBài 54: PHAOLÔ RAO GIẢNG TIN MỪNG CHO LƯƠNG DÂNTài liệu này nhắm đến một mục tiêu rõ ràng: cung cấp cho giáo dân một hiểu biết cơ bản về một số đoạn Tân Ước quan trọng. Như thế tài liệu này có những giới hạn hữu ý:
a) Chỉ tuyển lựa một số đoạn Tân Ước theo thứ tự lịch sử đời Ðức Giêsu và Giáo Hội. Những đoạn này được lựa chọn từ tất cả các sách Tân Ước chứ không theo một quyển nào nhất định. Cũng giống như một thứ “Tân Ước Hợp Tuyển”. Xét theo chuyên môn thì điều này không được hay lắm, bởi vì mỗi quyển, nhất là những quyển Tin Mừng, có một cách trình bày riêng thể hiện một suy tư thần học riêng, do đó không nên tổng hợp lại thành một món thập cẩm. Nhưng vì giáo dân không có điều kiện để học tất cả các quyển nên đành phải chấp nhận món thập cẩm này vậy!
b) Việc giải thích những đoạn được tuyển chọn ấy cũng không đi sâu vào chuyên môn như khoa chú giải, nhưng chỉ nhằm cho giáo dân hiểu và sống Lời Chúa thôi.
Ðề nghị những bước tuần tự cho một buổi học như sau:
1. Khai mạc: Hát một bản Thánh Ca (chẳng hạn “Xin cho con biết lắng nghe”). Rồi im lặng cầu nguyện một lúc.
2. Ðọc và giải thích Lời Chúa:
– Cả lớp đọc chung một số câu mà giảng viên sắp giải thích.
– Giảng viên giải thích những câu vừa đọc. Ðang khi giảng viên giải thích thì học viên, nếu muốn, có thể ghi “nốt”.
– Giải thích xong, giảng viên rao cho mọi người chép đại ý những điều vừa giải thích (Dĩ nhiên chỉ ghi đại ý thì không đầy đủ bằng ghi “nốt”. Nhưng đó là điều tối thiểu cho những học viên nào không có khả năng ghi “nốt”. Ai có khả năng vừa ghi “nốt” vừa chép đại ý thì càng tốt)
Thế là xong một chu kỳ đọc - nghe - chép, tiếp theo là một chu kỳ nữa cho một số câu kế tiếp. Cứ thế đến hết bài. Phương pháp này giúp cho buổi học sinh động nhờ xen lẫn ba hoạt động khác nhau ấy. Cách này tốt hơn là cách ban đầu đọc hết cả bản văn, tiếp đến nghe giảng dài và cuối cùng chép hết cả bài.
3. Cuối bài, giảng viên dựa vào đoạn Tân Ước vừa học để gợi lên một số ý chính cho học viên suy nghĩ. Những ý này cũng sẽ là chất liệu cho phần cầu nguyện tiếp theo sau.
4. Cầu nguyện: Học viên đã hiểu đoạn Tân Ước, bây giờ họ cầu nguyện. Ðể cho 3,4 học viên cầu nguyện tự phát. Ban đầu vì chưa quen nên ít ai dám. Giảng viên cần mời vài học viên xuất sắc xung phong. Về sau đã quen thì số người tình nguyện sẽ dễ có hơn. Kết thúc phần cầu nguyện cũng bằng một bản Thánh ca.
Mặc dù tài liệu này không nhằm dạy chuyên sâu về khoa Thánh Kinh Tân Ước, nhưng việc cung cấp cho học viên một ít kiến thức về lịch sử hình thành các sách Tân Ước là điều cần thiết để giúp họ tránh những hiểu lầm (thí dụ hiểu lầm rằng ngày xưa Ðức Giêsu và các tông đồ làm gì nói gì thì liền được ghi chép đúng y như vậy vào Tân Ước) và những hoang mang (thí dụ hoang mang khi gặp những chi tiết không hoàn toàn giống nhau giữa các sách Tin Mừng). Sau đây là sơ lược lịch sử hình thành các sách trong Bộ Tân Ước.
I. NHỮNG GIAI ĐOẠN HÌNH THÀNH CÁC SÁCH TÂN ƯỚC
1. Giai đoạn I: Ngôn hành của “Ðức Giêsu lịch sử”
– Ðức Giêsu sinh ra khoảng năm –4 trước công nguyên (sở dĩ người ta quen nghĩ Ðức Giêsu sinh ra vào năm một của công nguyên là do một sự tính toán sai lầm của tu sĩ Denys le Petit khi ông lập lịch Kitô giáo).
– Từ năm 28 đến 30 công nguyên, Ðức Giêsu bắt đầu hoạt động rao giảng. Cũng như tất cả những nhà giảng thuyết thời đó, Ðức Giêsu đi đây đi đó để hoạt động và rao giảng. Dân chúng và các môn đệ xem, nghe và nhớ nhưng không ai ghi chép lại. Có nhiều điều ngay cả các môn đệ tuy xem, nghe và nhớ nhưng cũng chưa hiểu hết ý nghĩa.
– Các nhà chuyên môn nghiên cứu Thánh Kinh gọi Ðức Giêsu trong giai đoạn này là ”Ðức Giêsu lịch sử”, nghĩa là Ngài đang nói (ngôn) và làm (hành) trong lịch sử của những năm mà thân xác Ngài đang sống ở trần gian.
2. Giai đoạn II: Thành lập các giáo đoàn
– Sau khi Ðức Giêsu sống lại và lên trời, các tông đồ đi rao giảng khắp nơi và thành lập những giáo đoàn.
– Có hai loại giáo đoàn:
a) Những giáo đoàn Kitô Dothái gồm những người trước kia theo Dothái giáo nay tin theo Kitô giáo (thí dụ giáo đoàn Giêrusalem). Loại giáo đoàn này hiểu biết Cựu Ước rất nhiều và còn giữ nhiều tập tục Dothái, nhưng cũng có nhiều va chạm với Dothái giáo truyền thống;
b) Những giáo đoàn kitô Hylạp gồm những người sống ngoài lãnh thổ Palestina và trong vùng ảnh hưởng văn hóa Hylạp (tuy không nhất thiết họ là dân Hylạp) (Thí dụ các giáo đoàn Rôma, Côrintô, Êphêxô v.v.). Họ không biết Cựu Ước, không theo tập tục Dothái giáo, nhưng cũng có một số vấn đề đặc biệt của họ, như thờ thần, nếp sống buông thả theo nhục dục, ngoại tình, đa thê v.v.
– Các giáo đoàn có nhiều sinh hoạt:
a) Rao giảng để truyền đạo (Kerygma);
b) Bồi dưỡng giáo lý cho tân tòng (Parénèse);
c) Huấn giáo (Didachè);
d) Phụng vụ (Latreia).
Ðể phục vụ cho những sinh hoạt này, các tông đồ không tùy tiện muốn nói gì làm gì tự ý, nhưng nhớ lại xem ngày xưa trong hoàn cảnh như thế Ðức Giêsu đã nói gì và làm gì rồi truyền lại cho tín hữu. Những lời nói và việc làm của Ðức Giêsu được nhớ lại và giải thích theo những hoàn cảnh cụ thể ấy được các nhà chuyên môn gọi là những ngôn hành của “Ðức Giêsu phục sinh”, nghĩa là những ngôn hành đã được hiểu dưới ánh sáng của mầu nhiệm phục sinh.
3. Giai đoạn III: Ghi chép và sưu tập
Có nhiều lý do thúc đẩy phải ghi chép và sưu tập lại những ngôn hành của Ðức Giêsu:
– Nhu cầu bồi dưỡng cán bộ: số giáo đoàn ngày càng gia tăng khiến cần tìm thêm người làm những việc của các tông đồ. Mà những người này không được nghe thấy những ngôn hành của Ðức Giêsu, vậy cần chép lại cho họ biết để dùng phục vụ các sinh hoạt của những giáo đoàn.
– Nhu cầu lưu truyền hậu thế: các tông đồ cứ chết dần chết mòn khiến người ta càng thấy cần ghi lại những ngôn hành của Ðức Giêsu mà các Ngài giảng dạy cho tín hữu để lưu truyền cho các thế hệ về sau.
Việc ghi chép trải qua nhiều giai đoạn:
– Trước hết là ghi chép thành những mẩu văn rời. Thí dụ một bài giảng của Ðức Giêsu, một phép lạ của Ngài v.v.
– Tiếp đến là tập hợp những mẩu văn rời ấy lại thành tập, dựa trên một số tiêu chuẩn. Thí dụ những bài giảng thành một tập, những phép lạ thành một tập, những dụ ngôn thành một tập v.v.
– Trong khoảng thời gian các giáo đoàn ghi chép, sưu tầm và lưu chuyển cho nhau những ngôn hành của Ðức Giêsu, họ cũng sửa đổi và thích nghi các bản văn để đáp ứng với những vấn đề cụ thể của giáo đoàn họ. Việc này không làm sai lạc ý tưởng của Ðức Giêsu, bởi vì chính Ðức Giêsu đang sống trong giáo đoàn (Ðức Giêsu phục sinh) và Chúa Thánh Linh soi sáng cho họ làm việc đó.
4. Giai đoạn IV: soạn thành sách
– Cuối cùng có những người gom góp tất cả những mẩu văn rời và những sưu tập để soạn thành 4 quyển Tin Mừng, đó là Matthêu, Marcô, Luca và Gioan. Dĩ nhiên những soạn giả này cũng có phần đóng góp riêng của họ: mỗi vị có một hướng trình bày các ngôn hành của Ðức Giêsu theo quan điểm riêng của mình, cho nên cũng có một cách chọn lựa tư liệu riêng, một cách sắp xếp bố cục riêng, xử dụng những từ ngữ và bút pháp riêng v.v. Dĩ nhiên ở đây các vị cũng được sự hướng dẫn đặc biệt của Ðức Giêsu phục sinh và Chúa Thánh Linh.
– Ngoài 4 quyển Tin Mừng ấy, còn có những tác phẩm ghi lại sinh hoạt của Giáo Hội (Sách Công vụ tông đồ), giáo huấn của những vị lãnh đạo các giáo đoàn (các Thư và sách Khải huyền). Những tác phẩm kể trên được gọi chung là Tân Ước.
Về niên biểu, những giai đoạn trên được phỏng định như sau:
– Khoảng năm 28–30: Ðức Giêsu lịch sử đang nói và hoạt động.
– Khoảng năm 30–70: Thành lập các giáo đoàn.
– Từ năm 50: Bắt đầu có các Thư.
– Từ năm 70–80: soạn 3 quyển Tin Mừng Matthêu, Marcô và Luca. Ba quyển này theo một sơ đồ tương đối giống nhau về thứ tự các diễn biến trong đời Ðức Giêsu, nên được gọi là các Tin Mừng nhất lãm (nhất lãm: một cái nhìn chung).
– Khoảng năm 95: Thánh Gioan soạn Tin Mừng thứ tư và sách Khải huyền.
II. NHƯ VẬY, TÂN ƯỚC LÀ LỚI CỦA AI?
1. Dĩ nhiên đó là lời của Ðức Giêsu được phát biểu chẳng những bằng lời nói mà còn bằng việc làm của Ngài và được hiểu dưới ánh sáng phục sinh. Có nhiều ngôn hành của “Ðức Giêsu lịch sử” lúc đang diễn ra thì các môn đệ không hiểu hoặc là chưa hiểu hết ý nghĩa, chúng chỉ được hiểu cách đầy đủ sau khi Ðức Giêsu phục sinh sai Chúa Thánh Linh đến soi sáng cho các tông đồ.
2. Ðó cũng là Lời của các giáo đoàn Kitô đã gìn giữ, suy gẫm và lưu truyền đồng thời thích nghi những ngôn hành của Ðức Giêsu vào hoàn cảnh sống của họ.
3. Và cũng là Lời của những vị soạn tác các tác phẩm đó.
Tóm lại, Tân Ước là Lời Ðức Giêsu được sống trong các giáo đoàn và sống bởi các soạn giả, Lời đã đem đến sức sống cho các tín hữu ngày xưa, và còn tiếp tục đem đến sức sống cho chúng ta ngày nay.
Những chữ viết tắt:
Ð = đọc chung vài câu Tân Ước trong bản văn
@ = chép
* Dẫn nhập: Trước khi đi vào Tân Ước ta nên nhắc lại Cựu Ước:
– Thiên Chúa đã dựng nên các nguyên tổ và cho các ngài một cuộc sống hạnh phúc (Cựu Ước diễn tả bằng hình ảnh vườn địa đàng). Nhưng các ngài đã phạm tội nên làm mất hạnh phúc đó (diễn tả bằng hình ảnh bị đuổi khỏi vườn địa đàng). Nhưng Thiên Chúa vẫn thương, nên chính trong lúc phạt các ngài, Thiên Chúa đã hứa ban Ðấng Cứu Thế (tiếng Hypri gọi là Messia)
– Các nguyên tổ sinh con đẻ cháu, loài người ngày càng thêm đông. Trong đám đông đó, Thiên Chúa gọi riêng một người là Abraham để từ ông lập thành một dân riêng của Ngài. Con cháu Abraham dần dà trở thành dân Dothái. Thiên Chúa luôn nhắc lại với các tổ phụ và các ngôn sứ lời hứa ban Ðấng Messia. Bởi đó trong những lúc gian nan khổ sở (tai ương, chiến tranh, mất nước, lưu đày, bị đô hộ v.v.) dân Dothái luôn kêu xin Ðấng Messia mau đến giải thoát họ. Lòng mong đợi ấy thể hiện trong lời nguyện “Trời cao hãy đổ sương xuống, và ngàn mây hãy mưa Ðấng cứu đời”.
@ Ngay sau khi nguyên tổ phạm tội, Thiên Chúa nhân từ đã hứa sẽ ban Ðấng Messia. Lời hứa này được Ngài lặp lại nhiều lần với các tổ phụ và các ngôn sứ. Bởi đó trong những lúc khổ sở, dân Dothái thường kêu xin Ðấng Messia mau đến cứu họ.
Thế rồi đến lúc Thiên Chúa quyết định chấm dứt thời gian mong đợi. Ngài bắt đầu thực hiện lời hứa đó. Sách Tin Mừng Luca thuật như sau:
Ð cc 26-27
Những câu này giới thiệu thời gian, nơi chốn và các vai của câu chuyện.
– Thời gian là “6 tháng sau”, tức là sau chuyện Thiên Chúa cho vợ chồng Dacaria và Isave tuy đã già mà cũng sắp có con (Lc 1,5-25). Ðứa con đó là thánh Gioan, người sẽ là Tiền Hô cho Ðức Giêsu sau này.
– Nơi chốn là “Một thành xứ Galilê tên là Nadarét”.
+ “Thành”: Chúng ta đừng tưởng “thành” ở Palestina ngày xưa cũng lớn và đông dân giống như những thành phố của chúng ta ngày nay. Thực ra nơi nào có khá đông người quy tụ sinh sống thì được gọi là thành. Thành thủ đô Giêrusalem chỉ nằm gọn trên ngọn đồi Sion và dân cư chỉ vỏn vẹn khoảng 20 ngàn, tương đương với một làng hay một xã chúng ta ngày nay thôi. Bởi đó có khi chúng ta nghe nói “thành Nadarét” và khi khác lại nghe là “làng Nadarét”.
+ “Xứ Galilê”: Xứ Palestina chia thành 3 miền: miền Bắc là Galilê, miền Trung là Samaria, miền Nam là Giuđê.
+ “Nadarét”: “thành” này rất nhỏ và không có gì đặc biệt, đến nỗi Cựu Ước không lần nào nói tới.
– Các vai là Thiên sứ và Ðức Maria
+ Thiên sứ: “Sứ” là người được sai, “Thiên” là trời, Thiên Chúa. Thiên sứ là những vị hầu cận Thiên Chúa được Ngài sai đến với loài người để truyền một sứ điệp nào đó. Thí dụ báo tin cho Abraham biết thành Sôđôma sắp bị hủy diệt; đến giúp đỡ Tôbia-Con. Thiên sứ trong chuyện này được gọi là Gabriel.
(Nói thêm về tên các Thiên sứ: Trong Thánh Kinh có 3 Thiên sứ được nêu tên:
– Gabriel: nghĩa là “người của Thiên Chúa” hay “Thiên Chúa mạnh mẽ”
– Raphael: “Thiên Chúa chữa trị”
– Micael: “Ai bằng Thiên Chúa”
Những cách đặt tên như vậy muốn nói lên hai điều: a) Thiên Chúa rất quyền năng. b) Thiên Chúa tuy vô hình nhưng luôn ở bên cạnh loài người.
+ “Maria”: Người mà Thiên sứ đến báo tin là Maria, “một thiều nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse thuộc dòng vua Ðavít”. Theo tục lệ Dothái tuổi đính hôn thường là 16. Do đó khi chuyện này xảy ra thì Maria khoảng 16 tuổi. Thánh Luca dùng chữ “đính hôn” (chứ không phải “kết hôn”) để cho thấy lúc chuyện này xảy ra thì Maria là một trinh nữ. Về Ðức Maria, ta cũng nên biết thêm hai chi tiết nữa: a) Tên Maria là một tên khá phổ thông và nhiều người có. Trong Tân Ước đã có 4, 5 người mang tên này. Ðó cũng là một tên bình dân, tương tự tên Hoa, Lan, Phượng của ta, không cầu kỳ cao sang như Công Tằng Tôn Nữ Hoàng thị Bích Ngọc chẳng hạn. b) Ðức Maria lại ở trong một làng nhỏ bé ít ai biết tới. Tóm lại Ðức Maria là một thiếu nữ tầm thường ở trong một làng nhỏ bé tầm thường.
@ cc 26-27: Khi đến thời đã định, Thiên Chúa sai thiên sứ Gabriel đến làng Nadarét nhỏ bé để gặp một thiếu nữ tầm thường là Maria.
Nhưng nơi một người tầm thường và ở một chỗ tầm thường như thế lại sắp xảy ra một việc hết sức phi thường.
Ð c 28
– Lời Thiên Sứ chào có hai điểm khác thường: a) Thông thường người Dothái mở đầu câu chào bằng tiếng Shalom (chúc bình an. x Ga 20,19). Ở đây, thiên sứ lại chào “Hãy vui lên”. Ðây là những chữ đầu của lời ngôn sứ Xôphônia nói về thời cứu độ cho dân Dothái: “Vui lên nào hỡi con gái Sion, vì Ðấng cứu độ rất uy hùng rày ngự trong nhà ngươi” (Xp 3,14-15). B) Thông thường, sau câu chào mở đầu thì người ta gọi tên người mình chào. Thí dụ “Chào Ông A”, “Chào bà B”. Ở đây thiên sứ không gọi tên Maria mà lại gọi “Cô-được-Chúa-ban-đầy-ơn-phúc”. Nghĩa là Thiên sứ đổi tên. Mà trong Thánh Kinh, đổi tên là đổi số mạng (Thí dụ Thiên Chúa đổi tên Giacóp thành Israel khi Ngài muốn chọn ông; đổi tên Simon thành Phêrô khi Ngài muốn chọn ông). Vậy qua lời chào đặc biệt này, Thiên sứ ngầm nói rằng: Thiên Chúa muốn chọn Maria làm người bắt đầu thực hiện lời hứa ban Ðấng Messia cho loài người.
@ c 28: Lời Thiên sứ chào Ðức Maria rất đặc biệt, ngầm nói rằng Thiên Chúa muốn chọn Người để bắt đầu thực hiện lời hứa ban Ðấng Messia.
Ð c 29
– Nghe lời chào ấy, Maria “bối rối, tự hỏi lời chào kia ý nghĩa thế nào”: Không phải Maria không hiểu ngụ ý của Thiên sứ, vì Người cũng thấy nó không giống cách chào thông thường, và Người cũng nhận ra nó mang âm hưởng lời tiên tri về Ðấng Messia. Nhưng Maria bối rối vì không ngờ lời tiên tri đó sẽ được bắt đầu thực hiện nơi mình. Maria chới với. Bởi đó Thiên sứ mới trấn an “Ðừng sợ”.
@ c 29: Lời chào quá tốt đẹp của Thiên Sứ khiến Ðức Maria bối rối vì không ngờ con người tầm thường như mình mà được Thiên Chúa chọn để thực hiện lời hứa ban Ðấng Messia.
Ð c 30-33
Thiên sứ vừa trấn an vừa giải thích thêm cho Maria hiểu rõ hơn:
+ Trấn an: “Ðừng sợ”, nghĩa là đừng sợ nhiệm vụ quá cao cả.
+ Giải thích thêm: Thiên sứ trích thêm một lời tiên tri nữa của ngôn sứ Isaia đồng thời áp dụng lời đó vào Ðức Maria: “Này cô sẽ thụ thai và sinh con trai, rồi phải đặt tên là Giêsu” (Is 7,14). Kế đó Thiên sứ mô tả đứa con mà Maria sẽ sinh ra: “cao trọng, được gọi là Con của Ðấng tối cao, làm vua trên nhà Giacóp muôn đời, vương triều sẽ vô tận”, toàn là những điều không thể nào ứng vào một người bình thường được mà chỉ ứng vào Ðấng Messia thôi. Tóm lại Thiên sứ muốn nói đứa trẻ sắp sinh ra chính là Ðấng Messia.
@ cc 30-33: Thiên sứ trấn an Ðức Maria, đồng thời giải thích thêm rằng đứa trẻ sắp sinh ra chính là Ðấng Messia.
Ð c 34
– “Vì tôi không biết đến người nam”: Ðộng từ “biết” trong Thánh Kinh rất sâu sắc có nghĩa là liên hệ rất mật thiết. Vợ chồng giao hợp với nhau cũng gọi là “biết” (x St 4,1.17.25 19,8 24,16). Vậy ý Ðức Maria thưa lại với Thiên sứ là Người không có giao hợp thì làm sao mà có con được.
@ c 34: Maria không hiểu làm thế nào Người có con được khi không có việc ăn ở vợ chồng.
Ð cc 35-37
Ðáp lại, Thiên sứ nói về quyền phép Thiên Chúa và đưa ra một băng chứng:
+ Quyền phép Thiên Chúa: “Chẳng có sự gì mà Thiên Chúa không làm được”. Việc thụ thai là do Thiên Chúa làm. Ngài làm cách bình thường là thông qua việc giao hợp của những vợ chồng mạnh khoẻ. Nhưng Ngài cũng có thể cho những người già yếu có con, hoặc cho sinh con không cần thông qua việc giao hợp.
+ Bằng chứng: người chị họ của Maria là Isave dù già quá tuổi có con bình thường nhưng đã được Thiên Chúa cho thụ thai 6 tháng rồi.
@ cc 35-37: Thiên Chúa quyền phép làm được mọi sự, Thánh Linh sẽ trục tiếp dựng nên một bào thai trong lòng Ðức Maria.
Ð c 38
– Khi đã hiểu rõ ý Thiên Chúa, Ðức Maria mau mắn đáp “Xin vâng như lời Thiên sứ truyền”. Dịch “Xin vâng” là chưa hết ý, bởi vì “xin vâng” như muốn nói rằng “Tôi sẽ làm theo ý”, tức là nhấn mạnh đến phần của con người. Bản dịch Vulgata (dịch thánh kinh từ tiếng Hypri và Hylạp sang tiếng Latin, của thánh Hiêrônimô) dùng chữ FIAT. Ðây là một động từ ở thể thụ động, hiểu ngầm người tác động là Thiên Chúa. Vì thế nên dịch là “xin hãy thành sự nơi tôi như lời Thiên sứ truyền”. Maria không làm gì cả ngoài việc ngoan ngoãn để cho Thiên Chúa hành động nơi mình. Khi con người để cho Thiên Chúa hành động nơi mình thì dù con người hèn yếu cũng sẽ xảy ra nhiều điều trọng đại. Ngược lại khi con người cậy vào khả năng của mình để hành động thì chẳng làm nên việc gì đáng kể.
@ c 38: Khi hiểu ý Thiên Chúa, Ðức Maria đã khiên tốn để Thiên Chúa thực hiện ý muốn của Thiên Chúa nơi người.
1. Thiên Chúa đã thực hiện những việc phi thường nơi Maria là một con người tầm thường, bởi vì Người đã khiêm tốn để cho Thiên Chúa hành động nơi mình.
2. Ngày nay Thiên Chúa cũng có thể làm nên những việc phi thường nơi những ai khiêm tốn để cho Thiên Chúa hành động nơi mình.
3. Câu tâm niệm: “Chẳng có điều gì mà Thiên Chúa không làm được”; “Con là tôi tớ của Chúa, xin hãy thành sự nơi con như lời của Chúa”.
Ð cc 39-40
– “Khi ấy”: Sau chuyện Thiên sứ báo tin cho Ðức Maria hay sẽ thụ thai Ðấng Messia.
– “Ði vội vã”: Trong Tin Mừng Luca, những người vừa có tin vui đều vội vã chia sẻ niềm vui với người khác (x 2,16: các mục tử; 24,33: các môn đệ Emmau). Ðức Maria vừa nhận được hai tin vui: Bà Isave chị họ của Người đã mang thai trong lúc tuổi già; chính bản thân Người cũng được chọn làm mẹ Ðấng Messia. Do đó Người vội vã đi chia vui với bà Isave.
– “Tới một thành miền núi thuộc xứ Giuđê”: Ðây là thành Ain Karim, cách Giêrusalem khoảng 6 km về phía Tây. Từ Nadarét của Ðức Maria đến Ain Karim phải mất chừng 3,4 ngày đường.
@ cc 39-40: Ngay sau khi biết Thiên Chúa đã chọn mình làm mẹ Ðấng Messia, và hay tin Isave thụ thai, Ðức Maria vội vã đến thành Ain Karim để chia vui với bà Isave.
Ð cc 41-45
– “Nhảy mừng trong dạ”: Không biết trên thực tế có xảy ra thật như vậy không. Nhưng ở đây thánh Luca nói theo niềm tin của người bình dân rằng những cử động của thai nhi là điềm báo trước tương lai của nó (x. St 25,22: Êsau và Giacóp đã tranh chấp nhau ngay từ khi còn trong lòng mẹ). Nói thai nhi nhảy mừng trong lòng mẹ là nói rằng sau này nó sẽ là tiền hô cho Tin Mừng.
@ Thai nhi nhảy mừng trong lòng bà Isave là điềm báo trước nó sẽ là Tiền Hô cho Tin Mừng.
– “Bà vinh phúc giữa các phụ nữ”: Cách nói của người Dothái có nghĩa so sánh tối thượng cấp: Bà là người có phúc nhất trong các phụ nữ.
– “Mẹ của Chúa tôi”: Trong các triều đình, nhà vua thường có nhiều vợ và con trai. Người con nào được chọn làm thái tử để kế vị thì được gọi là “Chúa tôi”, và mẹ của người đó được gọi là “Mẹ của Chúa tôi”. Isave gọi Ðức Maria như thế nghĩa là coi Người là Mẹ Ðấng Messia.
– “Bà phúc thay vì đã tin là sẽ ứng nghiệm lời Chúa nói với Bà”: Isave cũng nghĩ tới chồng mình là ông Dacaria. Cả Dacaria và Ðức Maria đều được Thiên sứ cho hay sắp có con, và cả hai đều hỏi lại. Nhưng câu hỏi của Dacaria biểu lộ sự nghi ngờ không tin, vì thế ông bị câm; còn câu hỏi của Maria biểu lộ sự tin tưởng: hỏi là để hiểu thêm việc mình thụ thai xảy ra thế nào được. Chính vì tin mà Maria có phúc.
@ cc 41-45: Bà Isave xưng tụng Ðức Maria là người diễm phúc nhất và là mẹ Ðấng Messia. Ðược như vậy vì Ðức Maria đã tin vào lời Thiên Chúa.
Sách Samuel thuật chuyện về Hòm Bia Giao ước như sau: Sau khi chiếm được thành của dân Giêbusi và đặt tên lại là thành Giêrusalem, vua Ðavít truyền rước Hòm bia về đấy. Hòm bia được chở trên một chiếc xe do bò kéo. Dọc đường con bò xảy chân, Hòm bia sắp đổ, có người vội đưa tay đỡ lấy, nguời đó liền chết tức khắc. Do đó Ðavít sợ không dám rước Hòm bia về Giêrusalem nữa, mà gửi lại nhà ông Obed Edom trong 3 tháng. Nào ngờ Thiên Chúa chúc phúc cho gia đình ông Obed Edom. Nghe tin ấy, Ðavít hết sợ và rước Hòm bia về Giêrusalem (2Sm 6).
Chuyện trên và chuyện này có nhiều điểm giống nhau:
a) Hòm bia di chuyển về hướng Giêrusalem; Ðức Maria cũng đi về hướng đó.
b) Hòm Bia đã ghé nhà Obed Edom 3 tháng; Ðức Maria cũng ghé nhà bà Isave 3 tháng (c 56).
c) Gia đình Obed Edom được chúc phúc; gia đình bà Isave cũng thế: đứa con nhảy mừng trong lòng mẹ, ông Dacaria sẽ hết câm, bà Isave kêu lên “Bởi đâu tôi được vinh dự thế này là được ơn mẹ của Chúa tôi thăm viếng”.
Như thế, Ðức Maria cũng giống như Hòm Bia vì đang mang Chúa trong lòng, và đi đến đâu thì đem phúc lành đến đó.
@ Vì đang mang Chúa trong lòng nên Ðức Maria đi đến đâu là đem phúc lành đến đó.
1. Ðức Maria là người nhân ái biết chia sẻ niềm vui với kẻ khác.
2. Ðức Maria được diễm phúc vì Người đã tin vào lời Thiên Chúa.
3. Vì mang Chúa trong lòng nên Ðức Maria đến đâu đều đem phúc lành đến đó.
Thánh Luca viết đoạn này giống như một họa sĩ vẽ bộ tranh gồm hai bức đối chọi nhau nhưng làm nổi bật nhau lên: bức thứ nhất (cc 1-8) vẽ cảnh thấp hèn; bức thứ hai (cc 9-20) là cảnh cao sang.
Ð cc 1-8
Ðây là cảnh thấp hèn. Sự thấp hèn của thánh gia và của Ðức Giêsu được mô tả trong các chi tiết sau:
a) Yếu thế trước uy quyền của hoàng đế Lamã:
– “Hoàng đế Augustô”: Tên thực của ông là Octaviô. Nhưng cũng như các hoàng đế Lamã khác tự xưng là thần và bắt dân phải thờ mình, ông còn lấy thêm một tên thần linh cho mình nữa là Augustô. Thánh Luca gọi ông bằng tên thần linh để nhấn mạnh đến uy quyền của ông.
– “Truyền khai sổ nhân dân”: Thánh Kinh coi việc kiểm tra dân số là độc quyền của Thiên Chúa vì chỉ Thiên Chúa mới có thể làm cho dân số tăng thêm (x 2Sm 24: Vua Ðavít lỡ kiểm tra dân số nên bị Thiên Chúa phạt). Chi tiết hoàng đế Lamã truyền kiểm tra dân số cũng nhấn mạnh đến uy quyền của ông.
– Trước uy quyền đó, cha mẹ Ðức Giêsu phải tuân phục, mặc dù thánh Giuse cũng thuộc hoàng tộc Ðavít, và Maria sẽ là mẹ Ðấng Messia.
b) Sinh ra trong cảnh trơ trọi nghèo nàn:
Thánh Luca chỉ dành một câu để mô tả việc Ðức Giêsu sinh ra (c 7), trước đó ngài dành tới 10 câu mô tả việc Gioan Tiền hô sinh ra (1,57-66). Hai cuộc sinh ra này có nhiều điểm khác nhau:
– Gioan được sinh ra trong mái ấm gia đình; Ðức Giêsu sinh ra trong chuồng súc vật
– Bà Isave còn có Ðức Maria giúp đỡ; còn Ðức Maria phải tự lo một mình: “Bà đã sinh con trai đầu lòng, bà lấy khăn bọc con và đặt trong máng cỏ”.
– Bà con lối xóm tới chúc mùng Gioan; còn Ðức Giêsu không ai tới chúc mừng ngoài những mục tử mà chúng ta sắp nói dưới đây.
c) Những người khách hèn hạ:
Câu 12 nói Thiên sứ đã báo tin cho các mục tử đến viếng Ðức Giêsu.
– Mục tử: Ðây không phải là những chủ nhân của đoàn vật mà chỉ là những người nghèo chăn chiên thuê. Vì phải nay đây mai đó dẫn đoàn chiên tới các đồng cỏ nên họ ít khi tham dự những buổi cầu nguyện ngày sabbat ở hội đường, bởi đó họ bị coi là khô khan nguội đạo. Hơn nữa vì túng thiếu nên họ cũng thường trộm cắp, nhất là trộm cắp của chủ, do đó họ còn bị coi là hạng tội lỗi. Luật pháp Dothái kỳ thị họ: không cho họ được như những công dân bình thường đứng ra xử kiện hoặc làm chứng trong những vụ xử kiện.
– Khi Thiên sứ báo tin cho ai thì cũng cho họ một dấu chỉ. Trong những lần hiện ra khác, dấu chỉ mà Thiên sứ đưa ra đều là những việc đặc biệt: trong trường cho Dacaria là việc ông bị câm, cho Ðức Maria là việc bà Isave dù già mà vẫn có con. Còn lần này thì dấu chỉ rất tầm thường: họ sẽ thấy một đứa bé mới sinh bọc trong khăn và nằm trong máng cỏ. Vậy mà họ phải tin rằng đó là Ðấng Messia.
@ cc 1-8: Ðức Giêsu sinh ra trong cảnh rất thấp hèn: cha mẹ Ngài phải cúi đầu tuân lệnh một ông vua ngoại đạo, Ngài sinh ra trong chuồng súc vật, và chỉ có những mục tử nghèo hèn đến thăm.
Ð cc 9-20
Sang bức tranh thứ hai, cảnh tượng bỗng huy hoàng rực rỡ hẳn lên:
– Thiên sứ hiện ra: Thánh kinh nhiều lần kể việc Thiên sứ hiện ra, nhưng thường chỉ hiện ra một mình và trong dáng vẻ rất bình thường khiến cho có khi người ta không biết đó là Thiên sứ (x St 16 Tl 13). Nhưng lần này Thiên sứ hiện ra có “vinh quang Chúa bao quanh sáng ngời”, còn có “một đoàn vô số thiên binh” tháp tùng, tất cả cất tiếng hát “tán dương Thiên Chúa vang lừng”. Giống như bầu khí của một lễ nghi tôn giáo trọng thể.
– Thiên sứ gọi Ðức Giêsu là “Vị Cứu Tinh”: Các hoàng đế Lamã tự coi mình là vị cứu tinh. Thực tế không đúng như vậy, ngược lại là đàng khác. Thiên sứ gọi Ðức Giêsu là vị cứu tinh để: a) mỉa mai sự tự phụ của hoàng đế Lamã (đối lại với bức tranh thứ nhất); b) nhắc cho người ta nhớ chỉ có Ðức Giêsu là Vị Cứu Tinh thật.
– Lời ca đoàn Thiên sứ hát “... bình an dưới thế cho người thiện tâm” cũng có hai ý đó a) hoàng đế Lamã tự hào với cái gọi là “nền hòa bình Lamã” (Pax romana). Thực ra đó chỉ là hòa bình cho một thiểu số giai cấp thống trị với cái giá biết bao đau khổ của đa số nhân dân bị trị. b) Chỉ có Ðức Giêsu mới đem lại nền hòa bình đích thực.
@ cc 9-20: Nhưng đứa trẻ nghèo hèn ấy chính là Con Thiên Chúa cao sang, là vị cứu tinh của nhân loại.
1. Con Thiên Chúa cao sang đã sinh xuống làm một con người thấp hèn.
2. Thiên Chúa xuống làm người để loài người lên làm Chúa.
3. Ngày xưa các mục tử được mời gọi nhận ra Thiên Chúa cao sang trong dáng vẻ một đứa trẻ yếu đuối nghèo nàn, ngày nay chúng ta cũng được mời gọi nhận ra hình ảnh Thiên Chúa trong những người nghèo khổ và trong những biến cố tầm thường của cuộc sống.
CẦu nguyỆn
Lạy Chúa, cảm tạ Chúa đã ban Chúa Giêsu, và Chúa ban hòa bình cho những người thiện tâm. Con cần phải dành thời gian suy gẫm điều này . Trong danh thánh Chúa Giêsu. Amen.
Ð c 21-24
Trong đoạn TM này, chúng ta thấy thánh gia làm 3 việc: a) Cắt bì và đặt tên cho con; b) Thanh tẩy cho người mẹ; c) dâng con trai đầu lòng và chuộc con.
a) Cắt bì và đặt tên cho con: Việc này không phải do tư tế làm ở Ðền thờ, mà do cha mẹ làm cho con trai tại nhà.
b) Thanh tẩy cho người mẹ:
– Sách Lêvi 12,2-8 quy định rằng sau khi sinh con thì người mẹ bị coi là ô uế. Ðến ngày thứ 8 thì phải cắt bì cho con nếu đó là con trai. Kế tiếp người mẹ phải ở cữ thêm 32 ngày nữa (tổng cộng 40 ngày). Nếu sinh con gái thì không phải cắt bì cho nó, nhưng thời gian ô uế kéo dài gấp đôi, nghĩa là 80 ngày. Sau thời gian ô uế đó, người mẹ phải lên Ðền thờ để làm lễ nghi thanh tẩy và phải dâng một con chiên và một con bồ câu (hoặc chim cu). Nếu nghèo thì dâng hai bồ câu hoặc hai chim cu.
– Theo luật trên, chỉ buộc người mẹ lên đền thờ. Nhưng ta thấy cả thánh gia 3 người đều lên đền thờ.
– Thánh gia dâng một cặp bồ câu, tức là lễ vật của người nghèo.
c) Chuộc con trai đầu lòng:
– Xh 13,2.13 quy định rằng mọi con trai đầu lòng đều thuộc về Thiên Chúa (vì xưa kia Thiên Chúa đã giết các con trai đầu lòng Aicập nhưng tha cho các con trai đầu lòng Dothái). Do đó sau khi sinh con trai thì cũng phải dâng nó cho Thiên Chúa. Nếu muốn giữ lại thì phải chuộc bằng một con chiên.
– Việc chuộc con trai cũng không cần đem nó lên đền thờ, chỉ cần mang lễ vật lên thôi. Nhưng 3 người của thánh gia đã lên hết.
Như thế thánh gia làm hơn mức bó buộc của luật.
@ cc 21-24: Thánh gia đã sốt sắng tuân thủ những quy định của luật về việc cắt bì cho con, việc dâng con cho Thiên Chúa và việc thanh tẩy người mẹ một cách chặt chẽ còn hơn mức bó buộc của luật.
Ð cc 25-35
Trong dịp này thánh gia đã gặp cụ già Simêon.
– “Thánh linh hằng ở với ông”: một cách nói rằng ông là một ngôn sứ. Vì ông là ngôn sứ nên “Thánh Linh tỏ cho ông biết rằng trước khi chết ông sẽ xem thấy Ðấng Messia”.
– “Ông hằng trông đợi niềm an ủi Israel”: “Niềm an ủi Israel” cũng là một cách nói về thời kỳ cứu độ của Ðấng Messia. Ông Simêon trông đợi niềm an ủi Israel nghĩa là ông trông đợi Ðấng Messia.
– Do Thánh linh soi sáng, lúc đó ông vào Ðền thờ. Khi gặp Ðức Giêsu ông biết ngay rằng đó là Ðấng Messia, nên bồng Ngài trên tay và cảm hứng hát lên một bài ca đại ý cảm tạ Thiên Chúa đã cho ông được thấy Ðấng Messia.
Ông còn nói tiên tri về Ðức Giêsu và Ðức Maria: những lời tiên tri rất khó hiểu:
– “Con trẻ này sẽ nên duyên cớ cho nhiều người trong Israel phải vấp ngã hay được nâng lên”: sau này, những ai tin vào Ðức Giêsu thì được cứu độ, còn những kẻ chống đối Ngài sẽ bị trầm luân.
– “Tâm hồn bà sẽ bị lưỡi gươm đâm thủng”. Lời này có hai nghĩa: a) Nghĩa thứ nhất dễ hiểu hơn: Ðức Maria sẽ phải đau đớn chứng kiến cái chết của con mình. b) Nghĩa thứ hai sâu sắc và khó hiểu hơn: Ta còn nhớ Thiên Sứ đã chào Ðức Maria bằng những lời mở đầu lời tiên tri Xôphônia “Hãy vui lên hỡi con gái Sion”. “Con gái Sion” là tên gọi văn chương của dân Israel (vì thủ đô nước họ nằm trên đồi Sion). Thiên sứ gọi Ðức Maria như thế nghĩa là Ðức Maria là đại diện của toàn dân Israel. “Lưỡi gươm” là hình ảnh mà Cựu Ước thường dùng để chỉ sự chia rẽ. Vậy lưỡi gươm đâm thủng tâm hồn Ðức Maria trong tư cách là đại diện cho dân Israel nghĩa là dân Israel sẽ chia rẽ nhau vì Ðức Giêsu: kẻ thì tin, người thì không tin. Ðức Maria sẽ chứng kiến cảnh chia rẽ đó.
– “Ðể tâm tư nhiều người phải tỏ bày ra”: Việc Ðức Giêsu đến buộc người ta phải chọn lựa thái độ tin hoặc không tin, như thế tức là tâm tư họ tỏ lộ ra.
Và cũng trong dịp này, thánh gia cũng gặp nữ ngôn sứ Anna. Bà này cũng tạ ơn Thiên Chúa và nói rằng Ðức Giêsu chính là Ðấng Messia.
@ cc 25-40: Trong dịp này, thánh gia đã gặp hai vị ngôn sứ là Ông Simêon và Bà Anna. Cả hai đều tạ ơn Thiên Chúa vì đã cho Ðấng Messia đến. Riêng Ông Simêon còn nói tiên tri rằng nhiều người sẽ tin nhưng cũng có nhiều người không tin vào Ðức Giêsu.
Thánh gia đã giữ luật một cách chín chắn hơn cả mức đòi buộc của luật. Ðó là một tấm gương cho chúng ta.
Ðc 1
Câu này giới thiệu nơi chốn, thời gian và các vai của câu chuyện:
– Nơi chốn là Bêlem xứ Giuđê: Bêlem nghĩa là “nhà của bánh mì”, là một thị trấn nằm cách Giêrusalem khoảng 8 km về phía Nam. Nó cũng còn được gọi là “thành của Ðavít” bởi vì Ðavít đã được xức dầu phong vương tại đây (1Sm 16,4.18). Và ngôn sứ Mikha đã tiên báo rằng Ðấng Messia sẽ sinh ra tại đây (Mk 5,1).
– Thời gian là giai đoạn Hêrôđê đang cai trị xứ Giuđê. Ðây là Hêrôđê Cả (gọi như thế để phân biệt với nhiều người khác cũng mang cùng tên Hêrôđê) Ông kết thân với đế quốc Lamã nên vào năm 47 trước công nguyên được Lamã đặt làm Thủ Hiến (Gouverneur) miền Galilê, đến năm 41 trước công nguyên lại được đặt làm Thái Thú (Tétrarque) rồi làm vua miền Giuđê. Ông cầm quyền cho đến năm 4 công nguyên mới chết.
– Vai chính là các đạo sĩ từ phương đông đến: Chữ “phương Ðông” chỉ vùng ở phía Ðông xứ Palestina, tức là Lưỡng Hà Ðịa (nên xem trên bản đồ). Người ta gọi họ có khi là đạo sĩ, có khi là chiêm tinh gia, có khi là bác học, có khi là vua nữa. Thực ra họ là những giáo sĩ của tôn giáo vùng Lưỡng Hà Ðịa vốn là thứ tôn giáo đa thần (do đó họ được gọi là đạo sĩ); họ cũng là những nhà trí thức nghiên cứu thiên văn (nên còn được gọi là bác học và chiêm tinh gia); căn cứ vào ba món lễ vật họ dâng cho Ðức Giêsu (c 11: vàng, nhũ hương, mộc dược) người ta đoán họ gồm ba người (thực ra thánh Matthêu không nói rõ số lượng mà chỉ dùng số nhiều: c 1 “có mấy đạo sĩ”); và vì những lễ vật đó quý giá thường dùng của các bậc vương giả nên người ta lại nghĩ họ là vua. Óc tưởng tượng bình dân lại còn nghĩ rằng họ gồm một vị da trắng, một vị da vàng và một vị da đen. Người ta còn gọi tên họ là Gaspar, Melkior và Balthasar. Tất cả chỉ là suy đoán thêm. Phần Mt chỉ ghi đó là những Magos (có thể dịch là “đạo sĩ”) từ phương Ðông đến, thế thôi.
@ c 1: Khi Ðức Giêsu sinh ra có những đạo sĩ của tôn giáo đa thần từ vùng Lưỡng Hà Ðịa phía Ðông xứ Palestina tìm đến thành Giêrusalem.
Ð c 2
– Nhiều dân tộc tin rằng mỗi người có một vì sao hộ mạng, người nào càng quan trọng thì sao càng lớn, khi người đó sinh ra thì sao xuất hiện, khi người đó chết thì sao cũng biến mất. Các đạo sĩ này cũng tin như vậy, nên khi nhìn thấy một vì sao lạ trên bầu trời thì suy đoán có một vị vua mới sinh. Tại sao họ suy rằng đó là vua người Dothái? Có lẽ vì họ cũng nghiên cứu Thánh Kinh của người Dothái, trong đó có lời tiên tri của Balaam: “Tôi trông thấy nó nhưng không phải cho bây giờ, tôi ngó thấy nó nhưng không phải gần đây: một tinh tú mọc lên từ Giacóp, một vương trượng dấy lên từ Israel” (Ds 24,17). Câu này chỉ cho biết sẽ có một vị vua (vương trượng, tinh tú) sinh ra ở Israel, nhưng không xác định địa điểm. Vì thế các đạo sĩ biết đến xứ Palestina nhưng không biết đến địa điểm nào đích xác. Họ phải vào hỏi vua Hêrôđê.
– Mặc dù niềm tin vào sao hộ mạng là mê tín, nhưng Thiên Chúa đã dùng nó để dẫn các đạo sĩ đến với Ngài.
@ c 2: Thiên Chúa đã dùng niềm tin mộc mạc của các đạo sĩ vào sao hộ mạng để dẫn họ đến với Ngài.
Ð cc 3-8
– Hêrôđê Cả thực ra không phải là người Dothái chính tông, mà là người Iđumê lai Ả rập. Chỉ vì khéo lấy lòng đế quốc Lamã mà được lên ngôi vua xứ Giuđê. Cho nên dân Dothái không thích ông vì họ chỉ thích một ông vua thuộc dòng giống Dothái. Biết vậy nên Hêrôđê lúc nào cũng sợ bị lật đổ. Khi nghe các đạo sĩ nói có “vua Dothái mới sinh” thì ông hoảng sợ.
– Bản văn còn ghi là cả thành Giêrusalem cũng hoảng sợ cùng với Hêrôđê. Chi tiết này không hợp lý. Nhưng thánh Matthêu ghi như vậy vì có hậu ý ghi một điềm báo trước rằng sau này cả thành Giêrusalem cũng từ chối vương quyền của Ðức Giêsu đến nỗi sẽ giết chết Ngài.
– Hêrôđê cũng tò mò muốn biết đối thủ của mình nên hỏi những người chuyên môn về Thánh Kinh (các thượng tế và thông giáo). Họ tìm trong Thánh Kinh được lời tiên tri của ngôn sứ Mikha (ta đã nói ở trên) cho biết nơi sinh của vua mới ấy là Bêlem. Khi biết thế, Hêrôđê sắp sẵn kế hoạch tiêu diệt Ðức Giêsu, nên ông khôn khéo lợi dụng các đạo sĩ, bảo họ đi dò đường trước rồi về báo cho ông hay “để cả tôi cũng đến thờ lạy Ngài”.
@ cc 3-8: Hêrôđê nghe nói về vua Dothái mới sinh thì sợ mất ngôi. Khi được các nhà chuyên môn Thánh Kinh cho biết Ðấng Messia sinh tại Bêlem, ông bảo các đạo sĩ dò đường đi trước để ông sai người đi sau giết chết Ðức Giêsu một cách âm thầm.
Ð cc 9-12
– Rời hoàng cung, các đạo sĩ lại được ngôi sao dẫn đường cho tới nơi thánh gia đang trọ. Lúc này có lẽ thánh gia không còn ở hang đá nữa mà đã tìm được một nhà trọ rồi. Các ông vào nhà thờ lạy Ðức Giêsu và dâng lễ vật.
– Ba món lễ vật thật là quý giá chứng tỏ lòng thành kính của các ông. Ngoài ra, các nhà đạo đức còn thấy chúng cũng có nghĩa biểu tượng: vàng tượng trưng Ðức Giêsu là Vua, nhũ hương tượng trưng Ðức Giêsu là Tư Tế, và mộc dược tượng trưng Ðức Giêsu cũng là người sẽ phải chết và được ướp xác. Các đạo sĩ có hiểu được những ý nghĩa biểu tương đó không thì ta không biết. Ta chỉ biết rằng tuy họ là lương dân nhưng đã tin kính, thờ lạy và dâng những lễ vật quý giá cho Ðức Giêsu. Ðiều này chứng tỏ Ðức Giêsu đã tỏ mình ra cho cả lương dân nữa, Ngài muốn cứu độ tất cả mọi người.
@ cc 9-12: Việc các đạo sĩ thờ lạy và dâng những lễ vật quý giá cho Ðức Giêsu chứng tỏ Ngài muốn tỏ mình cho cả lương dân và muốn cứu độ mọi người.
1. Chuyện các đạo sĩ tìm đến thờ lạy Ðức Giêsu cho ta biết thời nào cũng có những người thiện chí muốn tìm đạo thật.
2. Chuyện này cũng cho ta thấy Thiên Chúa muốn cứu độ mọi người không trừ ai.
Ðoạn này gồm 3 chuyện nhỏ:
a) Thánh gia trốn sang xứ Ai cập: cc 13-15
b) Hêrôđê hạ lệnh giết các hài nhi ở Bêlem: cc 16-18
c) Thánh gia trở về Nadarét: cc 19-23
Thánh Matthêu viết đoạn này rất sâu sắc với hậu ý so sánh Ðức Giêsu với Ông Môsê. Hậu ý này nằm trong câu trích dẫn Cựu Ước ở cuối mỗi chuyện nhỏ.
Ð cc 13-15: Chuyện thứ nhất
– Ai Cập: Xứ này ở phía Tây Nam nước Dothái. Ngày xưa gia đình ông Giacóp vì muốn tránh nạn đói ở xứ Canaan nên đã sang tạm trú ở Ai Cập. Nhưng khi con cháu ông sinh sản thêm đông thì vua Ai Cập sợ họ chiếm quyền nên một mặt ra lệnh giết chết các con trai đầu lòng Dothái, mặt khác bắt dân Dothái phải làm nô lệ. Nhưng có một đứa trẻ đã được cứu sống, đó là Môsê. Sau đó Thiên Chúa dùng Môsê giải phóng dân Dothái ra khỏi Ai Cập và trở về Ðất hứa Canaan (x Xh 1-15).
– Giữa chuyện trên và chuyện này có nhiều điểm giống nhau:
a) Cả hai đều nói đến Ai Cập
b) Trong hai chuyện đều có một ông vua tàn ác ra lệnh sát hại các con trai đầu lòng của dân Chúa. Nhưng đều có một đứa trẻ thoát chết.
c) Ðứa trẻ đó sau này sẽ giải phóng dân mình khỏi ách nô lệ.
Như thế, Ðức Giêsu chính là Ông Môsê mới được thoát chết trong cơn tàn sát và sẽ thực hiện một cuộc xuất hành mới đưa dân mới (gồm những kẻ tin vào Ngài) thoát ách nô lệ mới (tội lỗi).
– Thánh Matthêu mặc dù viết về chuyện thánh gia đưa Ðức Giêsu trốn sang Ai cập, nhưng lại nhằm nói đến việc xuất hành từ Ai cập trở về. Do đó ở cuối chuyện này ngài trích câu Cựu Ước: “Ta đã gọi con Ta từ Ai cập về” (Hs 11,1).
@ cc 13-15: Ðể tránh cơn tàn sát của Hêrôđê, Ðức Giêsu phải trốn sang Ai Cập. Nhưng như thế Ngài trở thành Môsê mới sẽ thực hiện cuộc Xuất hành mới để đưa dân mới thoát cảnh nô lệ tội lỗi.
Ð cc 16-18: Chuyện thứ hai
– Giết các hài nhi từ hai tuổi trở xuống: chi tiết này giúp ta hiểu rằng có lẽ thời gian đã trôi qua khá lâu từ khi các đạo sĩ nói với vua Hêrôdê về “vua Dothái mới sinh” đến khi Hêrôđê ra lệnh tàn sát hài nhi Bêlem Số các hài nhi bị giết là bao nhiêu? Ta nên lưu ý rằng ngày xưa đất rộng người thưa, một thành phố lớn như Giêrusalem mà dân số chỉ khoảng 20 ngàn. Vậy thì dân số của thị trấn Bêlem còn ít hơn nhiều (chừng 2000), số trẻ con từ hai tuổi trở xuống còn ít hơn nữa, có lẽ chỉ chừng một hai trăm.
– Văn mạch của câu Cựu Ước mà Mt trích dẫn (câu trích dẫn là Gr 31,15 nằm trong văn mạch rộng hơn, là Gr 31, 15-17) giúp ta biết ý mà Mt muốn gán cho chuyện này. Nhưng để dễ hiểu, cần nhắc lại dài dòng hơn:
Tổ phụ Giacóp có 12 con trai, trong đó hai người ông thương nhất là Giuse và Benjamin vì do Bà vợ Raken yêu quý của ông sinh ra. Giuse có hai con trai là Ephraim và Manassê. Trước khi chết, Giacóp đã nhận hai đứa con này của Giuse làm con của mình. Như thế, kể như Bà Raken và Giacóp có với nhau 3 đứa con. Khi chia Ðất hứa, 3 người này nhận được 3 phần đất mà sau này lúc đất nước chia đôi sẽ là 3 chi tộc mạnh nhất của tiểu vương quốc Israel ở phía Bắc.
Năm 721, đế quốc Assyria xâm chiếm tiểu vương quốc Israel, bắt dân đi lưu đày. Ngôn sứ Giêrêmia đã viết về biến cố này theo óc tưởng tượng của một thi sĩ. Ông tưởng tượng rằng biến cố ấy quá đau thương đến nỗi Bà Mẹ Raken tuy đã chết nhưng cũng đội mồ ngồi dậy than khóc các con mình (là các chi tộc Benjamin, Ephraim và Manassê). Tuy nhiên lời Thiên Chúa đã an ủi bà: “Thôi hãy im đi tiếng khóc và mắt hãy ráo lệ vì chúng sẽ từ xứ quân thù trở về” (Gr 31,16-17). Nghĩa là Thiên Chúa hứa cho dân Israel thoát cảnh nô lệ quân Assyria.
Thánh Matthêu khi kết thúc chuyện này bằng trích dẫn một câu trong đoạn Cựu Ước đó có ý nói thêm một lần nữa rằng Ðức Giêsu chính là người sẽ cứu thoát dân mới khỏi ách nô lệ.
@ cc 16-18: việc các hài nhi bị giết cũng giống như dân Israel bị đế quôc Assyria tàn sát ngày xưa. Nhưng Thiên Chúa sẽ dùng Ðức Giêsu để cứu thoát dân Ngài.
Ð cc 19-23: Chuyện thứ ba
Khi vua Hêrôđê qua đời, Thiên sứ báo mộng cho Thánh Giuse đem Ðức Giêsu và Ðức Maria trở về quê hương, và thánh gia định cư tại Nadarét.
Chuyện này có vài chi tiết đáng lưu ý:
– Lời thiên sứ “Những người tìm giết Hài nhi đã chết rồi”: Thực ra chỉ có mỗi một người tìm giết Hài nhi, đó là vua Hêrôđê, nhưng thánh Matthêu viết thành số nhiều “Những người tìm giết” vì ngài vẫn còn liên tưởng tới chuyện các vua Ai cập tìm giết các hài nhi Dothái và chuyện Môsê được cứu sống. Xh 4,19 ghi: “Yavê phán với Môsê ở Madian: đi đi, hãy trở về Ai Cập, vì chúng đã chết rồi, mọi kẻ tìm hại mạng ngươi”.
– Câu trích dẫn Cựu Ước ở cuối chuyện “Thế là ứng nghiệm lời ngôn sứ nói rằng thiên hạ sẽ gọi Ngài là người Nadarét”: Thực ra Cựu Ước chẳng có câu nào như thế. Chỉ có một câu trong đó có một chữ tương tự với chữ Nadarét, đó là Is 4,2 tiên báo về Ðấng Messia: “Trong ngày ấy, chồi lộc (nésèr) Yavê cho mọc sẽ là ánh huy vinh dự...”. Nghĩa là Matthêu muốn nói Ðức Giêsu chính là Ðấng Messia mà Cựu Ước tiên báo. Hơn nữa việc thánh gia ở Nadarét chỉ là trở về quê cũ thôi chứ không có gì lạ. Nhưng thánh Matthêu lại đưa ra lý do lòng vòng rằng vì thánh Giuse được biết người kế vị Hêrôđê cai trị xứ Giuđê là Arkêlaô con của ông ta nên thánh Giuse không dám định cư ở xứ Giuđê mà lại chọn định cư ở Nadarét. Tất cả sự lòng vòng đó chỉ vì thánh Matthêu muốn dẫn tới trích dẫn câu Is nói trên.
@ cc 19-23: Sau khi Hêrôđê qua đời, thánh gia rời Ai cập về định Cựu Ước tại Nadarét. Ðức Giêsu làm trọn lời tiên tri của ngôn sứ Isaia rằng Ngài chính là “chồi lộc” (nésèr) của một dân mới.
1. Cũng như Môsê ngày xưa, Ðức Giêsu ngay khi mới sinh đã bị tìm giết. Nhưng Thiên Chúa đã cứu thoát Ngài để sau này Ngài lại giải thoát dân Thiên Chúa khỏi ách nô lệ tội lỗi.
2. Những mưu kế thâm độc của loài người không bao giờ phá hỏng được chương trình của Thiên Chúa.
Trước khi đi vào bài này, chúng ta nên tìm hiểu đôi nét về Ðền thờ Giêrusalem và những lễ trọng của đạo Dothái.
1. Ðền thờ GiêrusalemÐền thờ là trung tâm nếp sống tôn giáo của người Dothái. Ngày xưa vừa khi mới bình định xứ sở, Vua Ðavít đã có ý định xây một Ðền thờ. Nhưng ý định này không thực hiện được vì Thiên Chúa chưa cho phép. Khi con của Ðavít là Salomon lên ngôi, ông lập tức cho xây dựng một Ðền thờ nguy nga lộng lẫy ở Giêrusalem. Rất tiếc là Ðền thờ ấy bị phá tan tành vào năm 587 bởi tay quân Babylon và dân Dothái phải bị lưu đày sang Babylon. Sau khi từ chốn lưu đày trở về, người Dothái lại bắt tay ngay vào việc xây dựng một Ðền thờ mới cũng tại Giêrusalem. Nhưng Ðền thờ thứ hai này cũng bị tàn phá khi quân Lamã tấn công vào Giêrusalem. Khi vua Hêrôđê lên nắm quyền, ông cho khởi công xây dựng lại Ðền thờ nữa. Công trình rất công phu và huy hoàng nên mãi tới năm 64 công nguyên mới hoàn thành. Như thế khi chuyện này xảy ra thì Ðền thờ còn chưa xây xong, nhưng cũng tạm dùng được cho các nghi lễ tổ chức trong đó.
Dù Ðền thờ Giêrusalem được xây lại nhiều lần, nhưng cấu trúc chính vẫn luôn giống nhau, nghĩa là được chia làm nhiều gian ngăn cách nhau:
– Gian cực thánh ở sâu nhất, trong đó có chứa Hòm Bia Giao Ước (trong Hòm Bia có hai bia đá lề luật và cây gậy của Aaron). Không ai vào được gian này chỉ trừ vị Thượng Tế mỗi năm vào một lần trong dịp lễ Ðền tội. Giữa gian cực thánh với gian kế tiếp có một bức màn che lớn.
– Gian kế tiếp là gian thánh có đặt bàn thờ và là nơi cử hành các lễ nghi của đạo Dothái như dâng hương, tế lễ. Chỉ có các Tư tế được vào đây.
– Tiếp đến là tiền đường dành cho những người nam Dothái
– Rồi đến tiền đường dành cho những phụ nữ Dothái
– Ngoài cùng là sân mà lương dân cũng đến được.
@ Ðền thờ Giêrusalem là trung tâm đời sống tôn giáo của người Dothái. Ðền thờ đầu tiên được xây bởi vua Salomon đã bị quân Babylon phá hủy. Ðền thờ thứ hai xây dựng lại bởi dân lưu đày trở về cũng bị quân Lamã phá hủy. Ðền thờ thời Ðức Giêsu do vua Hêrôđê xây đến năm 64 công nguyên mới hoàn thành. Ðền thờ Giêrusalem gồm nhiều gian cách biệt hẳn nhau: gian cực thánh, gian thánh, tiền đường cho nam tín hữu, tiền đường cho nữ tín hữu và sân lương dân.
Mỗi năm có 3 cuộc lễ lớn nhất thu hút hiều người hành hương về Giêrusalem:
a) Lễ Vượt Qua (còn gọi là lễ Bánh không men vì trong dịp này người ta ăn thịt chiên với bánh không men và rau diếp đắng) là lễ trọng nhất trong năm, kéo dài tới 7 ngày. Lễ này tưởng niệm việc Thiên Chúa giải phóng dân Dothái khỏi ách nô lệ Ai cập.
b) Lễ ngũ tuần: gọi như vậy vì lễ này diễn ra vào ngày thứ 50 sau lễ Vượt qua. Lễ này tưởng niệm việc Thiên Chúa ban Luật cho dân qua trung gian của Môsê trên núi Sinai. Lễ này trùng với thời kỳ gặt hái nên còn được gọi là Lễ Mùa Gặt, dịp này người ta tạ ơn Thiên Chúa đã ban mùa màng cho họ.
c) Lễ Lều: diễn ra vào mùa thu. Lễ này tưởng niệm thời gian dân Dothái ở trong sa mạc phải trú ngụ dưới những mái lều. Lễ này cũng vào mùa hái trái cây, người ta dựng lều trong các vườn cây để hái trái.
@ Ðạo Dothái mỗi năm có 3 cuộc lễ lớn: Lễ Vượt qua tưởng niệm việc Thiên Chúa giải phóng dân khỏi Ai cập, Lễ Ngũ tuần tưởng niệm việc Thiên Chúa ban luật trên núi Sinai và Lễ Lều tưởng niệm thời gian dân ở sa mạc. Trong 3 dịp lễ này, nhiều người hành hương lên Ðền thờ Giêrusalem.
Ð cc 41-43a
Những câu này cho thấy một số điểm đặc biệt trong việc thánh gia tuân giữ luật đạo Dothái về những cuộc lễ trọng:
– “Hằng năm”: Tuy có luật buộc hành hương lên Giêrusalem dự những cuộc lễ trọng đó. Nhưng trên thực tế những người ở xa thủ đô, nhất là những người Dothái ở nước ngoài, chỉ cố hành hương một lần trong đời thôi. Thánh gia ở Nadarét tận miền Bắc rất xa Giêrusalem tận miền Nam. Thế mà vẫn hành hương hằng năm.
– “Cha mẹ Ðức Giêsu “: Theo Xh 23,17 và Ðnl 16,16 thì luật hành hương chỉ buộc những “nam nhân”. Ðức Maria không phải là nam nhân thế mà cũng hành hương.
– “Khi Ðức Giêsu được 12 tuổi”: Cũng theo hai khoảng luật trên, được kể là “nam nhân” những người nam từ 13 tuổi trở lên. Ðức Giêsu tuổi mới 12 mà cũng giữ luật. Hơn nữa thánh Luca còn ghi nhận là “Các ngài lên đô thành dự lễ theo lệ đã quen”. Không rõ đại từ “các ngài” có gồm Ðức Giêsu trong đó không. Nếu có thì Ðức Giêsu hành hương dự lễ không phải chỉ từ lúc 12 tuổi, mà nhiều lần trước nữa. Rất có thể là như vậy, bởi vì đại từ ở số nhiều bao gồm cả thánh Giuse và Ðức Maria. Nếu cha mẹ cùng đi thì tất Ðức Giêsu cũng đi theo vì Ngài còn nhỏ không ở nhà một mình được.
– “Lễ xong, hai vị ra về”: Lễ Vượt qua kéo dài đến 7 ngày, nhưng chỉ buộc tham dự 3 ngày đầu, còn 4 ngày sau là tùy ý. Chữ “xong” chứng tỏ thánh gia đã dự trọn 7 ngày.
Những chi tiết trên chứng tỏ thánh gia giữ luật đạo rất chín chắn, còn hơn mức đòi buộc của luật.
@ cc 41-43a: Thánh gia đã giữ luật hành hương lễ Vượt qua một cách sốt sắng và chín chắn hơn cả mức đòi buộc của Luật.
Ð cc 43b-47
– “Ðoàn khách hành hương”: Những người đi hành hương vào dịp lễ Vượt qua rất đông nên dễ lạc nhau. Ðường đi lại xa xôi hiểm trở dễ gặp tai nạn. Lại có nhiều đoạn đường vắng thường có trộm cướp phục kích sẵn. Vì thế người ta thường họp thành đoàn khi đi cũng như khi về.
– Khi 7 ngày lễ kết thúc, thánh Giuse và Ðức Maria ra về, còn Ðức Giêsu ở lại mà hai ngài không hay vì tưởng Ngài nhập đoàn những bà con quen biết. Ðến khi các đoàn gặp nhau (một ngày sau) thì các ngài không thấy Ðức Giêsu ở trong những đoàn quen, mới quay trở lại Giêrusalem để tìm Ngài.
– Mãi tới ngày thứ ba mới gặp Ngài ở trong Ðền thờ đang đàm đạo với các bậc tôn sư làu thông Thánh Kinh. Những câu đối đáp của Ngài rất thông minh khiến những vị này phải ngạc nhiên.
@ cc 43b-47: Khi lễ đã xong, cha mẹ Ðức Giêsu ra về còn Ngài ở lại Ðền Thờ đàm đạo với các bậc tôn sư trong đạo một cách rất thông minh khiến họ phải kinh ngạc.
Ð cc 48-50
Những câu này tạo cảm tưởng Ðức Giêsu hỗn láo với cha mẹ. Thực ra chính những câu này là chìa khóa giúp ta hiểu được ý nghĩa việc Ðức Giêsu ở lại Ðền thờ.
– “Nhà Cha của con”: a) Ðức Giêsu dùng tiếng Abba, tiếng thân mật của đứa trẻ gọi cha mình (như tiếng Ba, Bố của VN). Người Dothái không dám gọi Thiên Chúa như thế vì sợ bất kính. Nhưng Ðức Giêsu dám, chứng tỏ Ngài rất yêu mến và tin cậy Chúa Cha. b) Khi trả lời với thánh Giuse và Ðức Maria rằng nhà của Thiên Chúa (Ðền thờ) là nhà của Cha mình, Ðức Giêsu cũng hé mở cho các vị biết Ngài là Con của Thiên Chúa; ngoài bổn phận đối với các vị là cha mẹ đang nuôi dưỡng mình, Ngài còn có bổn phận với Cha trên trời nữa. Như thế là Ðức Giêsu chuẩn bị tâm lý trước cho hai vị để sau này Ngài rời gia đình ra đi thi hành sứ mạng Chúa Cha giao phó.
– Trong Tin Mừng Luca, đây là lời nói đầu tiên của Ðức Giêsu được ghi lại và là lời nói về Chúa Cha. Lời nói cuối cùng của Ngài trước lúc tắt thở cũng là nói về Chúa Cha: “Con phó linh hồn trong tay Cha”(23,46). Và lời nói cuối cùng của Ngài sau khi sống lại và trước khi lên trời cũng là nói về Chúa Cha: “Thầy sẽ sai xuống với các con Ðấng mà Cha Thầy đã hứa” (24,49). Như thế chuyện này mặc khải Ðức Giêsu là Con của Thiên Chúa.
– Trong TM Luca, những việc quan trọng đều diễn ra trong Ðền thờ: cảnh đầu tiên của tác phẩm là Dacaria tế lễ trong Ðền thờ (1,5t); cảnh đầu tiên Ðức Giêsu xuất hiện trước công chúng là chuyện này cũng diễn ra trong Ðền thờ; cảnh cuối cùng là các môn đệ họp nhau cầu nguyện trong Ðền thờ (24,33). Vậy mặc khải thứ hai của chuyện này là: Ðức Giêsu chính là Ðền thờ đích thực, mọi việc thờ phượng đều phải qua trung gian của Ngài, nếu chỉ có lễ nghi bề ngoài thì đều không giá trị.
@ cc 48-50: Chuyện này mặc khải hai điều: Ðức Giêsu chính là Con của Chúa Cha, đến trần gian để thi hành sứ mạng Chúa Cha giao phó; Ðức Giêsu là Ðền thờ đích thực, mọi việc thờ phương đều phải qua trung gian của Ngài.
Ð cc 51-52
– “Rồi Ðức Giêsu xuống theo hai vị về Nadarét và hằng vâng lời cha mẹ”: Ðức Giêsu không phải là một đứa con hỗn láo như cảm tưởng sai lầm về chuyện này gây ra. Ngài “hằng vâng lời cha mẹ”.
– “Nhưng cả hai không hiểu”: “Không hiểu” là một đề tài lớn trong TM Luca. Nhiều lần Luca nói người ta “không hiểu” (x thêm 9,45 18,34 24,25). Lần nào cũng liên quan tới việc Ðức Giêsu ám chỉ cuộc chịu nạn và chịu chết của Ngài. Như thế chuyện này cũng là một ám chỉ rằng Ðức Giêsu sẽ từ giã gia đình ra đi để chịu nạn chịu chết cứu nhân loại. Nhưng lúc đó Thánh Giuse và Ðức Maria chưa hiểu.
@cc 51-52: Sau việc ở lại Ðền thờ, Ðức Giêsu đã về sống với gia đình ở Nagiarét, vâng phục cha mẹ, chờ ngày từ giã gia đình ra đi thi hành sứ mạng của Chúa Cha.
Ðức Giêsu là một người con hiếu thảo của Thánh Giuse và Ðức Maria, nhưng cũng là Con của Chúa Cha phải lo chu toàn nhiệm vụ Chúa Cha giao phó. Ngài dạy mỗi người chúng ta cũng phải lo chu toàn hai nhiệm vụ dối với cha mẹ phần xác và Thiên Chúa trên trời.
Đ cc 1-2a
Thánh Luca là một soạn giả Tin Mừng quan tâm đến lịch sử hơn những vị khác.
- “Năm hoàng đế Tibêriô thứ 15” : tính ra công nguyên thì tương đương với năm 28 hoặc 29.
- Trong bảng liệt kê những vị đang cầm quyền dân sự và tôn giáo thời đó, ta hãy chú ý sự chọn lựa hữu ý của thánh Luca :
+ 2 vị nắm quyền ở phần đất do thái : Ponxiô Pilatô tổng trấn xứ Giuđê, Hêrôđê Antipas phó vương xứ Galilê.
+ 2 vị nắm quyền ở phần đất lương dân : Philíp phó vương xứ Ituri và Trakônitiđê, Lysani phó vương xứ Abilen.
+ 2 vị nắm quyền trong đạo : Các thượng tế Anna và Caipha.
Mở đầu bài tường thuật với tên tuổi những vị cầm quyền cùng những vùng đất và những lãnh vực hành quyền như thế, Thánh Luca muốn lưu ý đến bối cảnh phổ quát của lời Gioan rao giảng : Tin Mừng mà Gioan chuẩn bị sẽ được gởi đến cho mọi người dù là do thái hay dân ngoại.
@ cc 1-2a : Gioan xuất hiện để dọn đường cho Tin Mừng được gởi đến mọi người.
Đ cc 2b-14
- “Có lời TC truyền dạy ông Gioan” : Câu dẫn nhập này giống với câu dẫn nhập vào chuyện ngôn sứ Giêrêmia (Gr 1,2 “Có lời Yavê đến với ông (Giêrêmia) ...”. Thánh Luca ngầm nói Gioan cũng là 1 ngôn sứ. Sau gần 5 thế kỷ im tiếng ngôn sứ (x Tv 74,9 1Mcb 4,46 9,27 14,41), nay một ngôn sứ mới xuất hiện để dọn đường cho Đấng Messia.
- Nội dung lời rao giảng của Gioan cũng giống với các ngôn sứ thời CƯ : “Hãy ăn năn trở lại”. TC đã vạch cho con người một con đường dẫn tới hạnh phúc thật, nhưng con người luôn đi lệch đường nên phải khổ. Do đó ăn năn trở lại là điều luôn cần thiết.
- Nhưng hơn các ngôn sứ thời xưa, Gioan còn kêu gọi “... rồi chịu thanh tẩy” : Thực ra thanh tẩy của Gioan không tẩy xóa tội lỗi được như Bí tích Thanh Tẩy mà ĐG sẽ lập, nó chỉ là một hình thức bề ngoài để bày tỏ cách cụ thể quyết tâm ăn năn trở lại. Nhưng ta thấy lời kêu gọi của Gioan khẩn thiết hơn các ngôn sứ ngày xưa : không chỉ ăn năn trở lại bằng ý muốn hoặc bằng tình cảm suông, mà còn phải thể hiện cụ thể sự ăn năn trở lại ấy.
- Thể hiện chẳng những bằng nghi thức thanh tấy mà còn bằng việc thay đổi nếp sống. Người ta thường sống ích kỷ mạnh ai nấy lo cho mình, tham lam vơ vét vào túi không bao giờ đủ, và chèn ép kẻ khác. Do đó Gioan khuyên quần chúng đừng ích kỷ nhưng phải biết chia cơm sẻ áo cho nhau ; khuyên những người thu thuế đừng tham lam đòi quá mức thuế ấn định để cất phần dư vào túi riêng ; và khuyên những quân nhân đừng lạm dụng quyền hành để áp bức kẻ yếu thế.
- Nội dung rao giảng của Gioan có phần tiêu cực (đừng, đừng, đừng...). Sau này ĐG sẽ rao giảng tích cực hơn (x Lc 6,27-36 : tha thứ, làm ơn và yêu thương mọi người kể cả kẻ thù, theo gương Chúa Cha trên trời). Bởi vì Gioan chỉ là người dọn đường, bước đầu chỉ là dọn dẹp những gai góc, lồi lõm, quanh co. Phần trải nhựa cho đẹp là chuyện của giai đoạn sau.
@ cc 2b-14 : Gioan kêu gọi người ta ăn năn trở lại, thể hiện cụ thể bằng việc thanh tẩy và từ bỏ những ích kỷ, tham lam và chèn ép kẻ khác.
Đ cc 15-18
- Xin nhắc lại : ngay khi phạt tội nguyên tổ, TC đã hứa ban Đấng Messia để cứu thoát loài người. Vì thế dân do thái trong những lúc khổ sở thường mong đợi Đấng Messia. Nhất là khi đó họ đang sống dưới ách đô hộ của đế quốc La mã. Khi họ thấy Gioan là một nhân vật đặc biệt với lời rao giảng và phép thanh tẩy chuẩn bị cho 1 thời kỳ mới, họ tưởng ngài chính là Đấng Messia.
Gioan vừa đính chính mình không phải là Messia, vừa tiết lộ rằng Đấng Messia sắp đến :
- “Tôi thanh tẩy bằng nước... Ngài thanh tẩy trong Thánh linh và lửa” : Nước chỉ chảy lướt qua ngoài da, Thánh Linh mới xuyên thấu tâm hồn, và lửa mới thanh luyện hoàn toàn . Như đã nói ở trên, thanh tấy của Gioan chỉ là một hình thức biểu lộ lòng ăn năn, còn Bí tích Thanh Tẩy mà ĐG sẽ lập mới tẩy sạch tội lỗi (lửa) và ban một sự sống mới (Thánh Linh).
- “Tôi không đáng xách dép cho Ngài” : theo tục lệ thời đó, khi ông chủ đi đâu thì có đầy tớ đi theo. Chủ vào nhà thì đầy tớ cởi dép cho chủ. Nếu chủ vào thăm nhà người khác thì đang khi chủ nói chuyện, đầy tớ đứng bên cạnh xách dép, lúc nói chuyện xong ra về thì đầy tớ mang dép lại cho chủ. Qua câu này, Gioan khiêm tốn tự nhận mình chỉ là đầy tớ của Đấng Messia.
- Tiếp theo, Gioan giới thiệu đôi nét về Đấng Messia. Những hình ảnh lúa và trấu, cất lúa vào kho và đun trấu trong lò lửa muốn nói đến việc thanh trừng : thưởng người tốt và phạt kẻ xấu. Ý Gioan muốn cảnh cáo : phải lo ăn năn trở lại thành người tốt để được thưởng, ai không ăn năn trở lại thì sẽ bị phạt.
@ cc 15-18 : Gioan khiêm tốn nói rằng mình không phải là Đấng Messia mà chỉ là đầy tớ của Ngài, và Gioan cảnh cáo mọi người phải ăn năn sám hối để khỏi bị trừng phạt.
1. Ăn năn trở lại là điều cần phải làm luôn, vì con người thường đi lạc xa đường ngay chính.
2. Gioan nêu gương khiêm tốn chỉ biết chu toàn nhiệm vụ chứ không ham lợi lộc vinh quang.