Việc khám phá ra rằng bên trong trại tập trung cũng có bóng dáng của nghệ thuật có lẽ sẽ khiến cho người bên ngoài ngạc nhiên. Và họ sẽ càng kinh ngạc khi biết người tù lại còn có thể tìm thấy sự hài hước trong hoàn cảnh khủng khiếp ấy, dĩ nhiên tâm trạng vui vẻ ấy chỉ xuất hiện trong giây lát rồi tất cả lại chìm trong bóng đêm vô vọng. Sự hài hước là một loại vũ khí tinh thần trong cuộc đấu tranh duy trì sự sống. Nó có sức mạnh hơn bất cứ phẩm chất nào khác, có thể đưa con người vượt lên bất kỳ hoàn cảnh nào, cho dù chỉ là trong phút chốc. Thực tế tôi đã giúp một anh bạn làm cạnh tôi tại công trường xây dựng cách phát triển óc hài hước. Chúng tôi hứa với nhau rằng mỗi người ít nhất phải nghĩ ra một câu chuyện cười mỗi ngày về một việc bất ngờ nào đó có thể xảy ra khi chúng tôi đã được tự do. Anh ấy là một bác sĩ phẫu thuật và đã từng làm việc trong một bệnh viện lớn. Thế là có lần tôi khiến anh ấy cười bằng cách diễn tả việc anh ấy không thể quên được thói quen ở trong trại sau khi đã trở về với công việc cũ của mình như thế nào. Trong công trường xây dựng (nhất là khi có giám sát viên đi kiểm tra), tay đốc công sẽ thúc chúng tôi làm việc nhanh hơn bằng cách hét lên “Làm việc đi! Làm việc đi!”. Vì thế, tôi đã nói với anh ấy: “Anh nghĩ sao nếu một ngày nào đó, lúc anh trở lại phòng mổ và đang tiến hành một ca phẫu thuật bụng. Bỗng nhiên một nhân viên chạy ào vào phòng và thông báo sự xuất hiện của bác sĩ phẫu thuật cấp cao bằng cách hét toáng lên: “Mổ đi! Mổ đi!”
Đôi khi những người khác cũng sáng tác ra những giấc mơ hài hước về tương lai, chẳng hạn như câu chuyện về buổi tiệc mà họ được mời đến dự sau khi đã được giải thoát khỏi trại. Khi xúp được mang ra, họ quên mất mình đang ở hiện tại, và thế là họ năn nỉ người chủ nhà hãy múc xúp “từ đáy nồi” cho họ.
Nỗ lực phát triển khiếu hài hước và nhìn mọi việc theo cách vui nhộn là một mánh khoé mà tôi đã học được trong lúc làm chủ nghệ thuật sống. Mặc dù ở đâu cũng có đau khổ, ở đâu cũng cần khiếu hài hước, nhưng trong trại tập trung thì càng phải rèn luyện nghệ thuật sống khôi hài. Cơ chế vận hành của nỗi đau khổ trong con người cũng tương tự như cách vận hành của chất khí. Nếu ta bơm một số lượng khí nhất định vào một căn phòng trống thì lượng khí đó sẽ lấp đầy hoàn toàn căn phòng, cho dù căn phòng ấy có lớn đến thế nào chăng nữa. Tương tự, đau khổ sẽ chế ngự tâm hồn và trí não của một người, cho dù nỗi đau khổ ấy là lớn hay nhỏ. Như vậy, “kích thước” của đau khổ là hoàn toàn tương đối.
Theo đó, một việc rất nhỏ cũng có thể đem lại niềm hạnh phúc lớn lao. Hãy lấy ví dụ về một việc đã xảy ra trong chuyến đi từ Auschwitz đến trại tập trung Dachau. Chúng tôi đều lo sợ chuyến xe sẽ đưa chúng tôi đến trại Mauthausen. Căng thẳng dâng cao khi chúng tôi tiến gần đến cây cầu bắc qua sông Danube - nơi xe lửa phải băng qua để đến Mauthausen (chúng tôi biết được điều này là do một tù nhân có kinh nghiệm kể lại). Những ai chưa bao giờ trải qua điều gì đó tương tự thì khó mà hình dung được điệu nhảy vui sướng của những tù nhân trong xe khi thấy chúng tôi không băng qua cây cầu mà “chỉ” đi đến Dachau.
Điều gì xảy ra trên đường chúng tôi đến trại Dachau trong suốt chuyến đi kéo dài hai ngày, ba đêm? Sàn xe lửa không đủ chỗ cho mọi người cùng ngồi, cho dù là kiểu ngồi co người lại cho ít tốn diện tích nhất. Đa số chúng tôi phải đứng suốt đường đi, trong lúc một số người thay phiên nhau ngồi xổm lên những bó rơm ít ỏi thấm đẫm nước tiểu. Khi vừa đến nơi, tin quan trọng đầu tiên mà chúng tôi biết được từ các tù nhân cũ: Dachau là một trại tương đối nhỏ (sức chứa khoảng 2.500 người), không có “cái lò” nào cả, không lò thiêu, không phòng hơi ngạt! Điều đó có nghĩa là nếu một người chẳng may trở thành một “Moslem” thì người đó cũng sẽ không bị đưa thẳng đến phòng hơi ngạt mà phải chờ đến chuyến “vận chuyển bệnh nhân” về lại Auschwitz. Sự ngạc nhiên sung sướng này đã khiến tâm trạng chúng tôi phấn chấn lên. Lời ước của viên tự quản của chúng tôi ở Auschwitz đã thành hiện thực: chúng tôi đã nhanh chóng được chuyển đến một khu trại không “ống khói” - không giống Auschwitz. Chúng tôi cười và đùa nghịch, bất chấp những gì mình sẽ phải trải qua trong những giờ tới.
Khi điểm danh, một trong số chúng tôi không có mặt. Thế là chúng tôi buộc phải đợi bên ngoài dưới mưa, trong cơn gió lạnh cho đến khi người ta tìm thấy người vắng mặt đó. Cuối cùng người ta tìm thấy anh ấy trong khu nhà mà anh đã ngủ quên do kiệt sức. Việc điểm danh chuyển thành việc trừng phạt tập thể. Suốt cả đêm cho đến sáng, chúng tôi buộc phải đứng ngoài sân, lạnh cóng và ướt sũng sau chuyến hành trình căng thẳng. Tuy nhiên, tất cả chúng tôi đều thấy vui! Vui vì không có bóng dáng của ống khói lò thiêu và vì Auschwitz đã ở phía sau.
Một lần khác, chúng tôi nhìn thấy một nhóm tù bị kết án đi ngang qua chỗ làm việc của chúng tôi. Tính tương đối về sự bất hạnh hiện lên mới rõ rệt làm sao! Chúng tôi ghen tị với những người tù phạm tội thật sự ấy. Họ chắc chắn có cuộc sống điều độ, an toàn và hạnh phúc. Họ chắc chắn có được cơ hôi tắm rửa thường xuyên - chúng tôi buồn bã nghĩ. Họ chắc chắn có bàn chải răng, bàn chải giặt, nệm ngủ - mỗi người một cái - và hàng tháng nhận được thư từ tin tức về người thân, hoặc ít nhất cũng biết được họ có còn sống hay không. Còn chúng tôi đã mất cái quyền ấy từ rất lâu rồi. Và chúng tôi cũng cảm thất ghen tỵ khi một số người trong chúng tôi có cơ hội vào nhà máy và làm việc trong một căn phòng có mái che! Ai cũng ao ước có được sự may mắn nhỏ nhoi đó. Nhưng những điều được gọi là “may mắn” này cũng có nhiều mức độ khác nhau. Trong số các đội làm việc ngoài trại (tôi là thành viên của một trong các đội đó) có một vài đơn vị được xem là tệ hơn những đơn vị khác. Một số tù nhân phải chịu cảnh lội ở khu đất sình lầy trên sườn dốc để dỡ than từ xe đẩy xuống trong suốt 12 giờ liền. Hầu như mỗi ngày đều có tai nạn xảy ra với công việc cực khổ này, và thường là dẫn đến tử vong.
Ở môt số nhóm làm việc khác, tên quản đốc giám sát theo cách truyền thống, tức là bằng roi vọt. Điều này khiến chúng tôi cảm thấy khá may mắn khi không thuộc quyền quản lý của bọn chúng hoặc nếu có cũng chỉ tạm thời. Một lần nọ, thật không may tôi lại rơi vào một nhóm như thế. Trước khi chuông báo động có không kích vang lên, chúng tôi làm việc liên tục suốt hai giờ không nghỉ (trong thời gian này, tên quản đốc đặc biệt để mắt tới tôi).
Nếu như hôm đó không có tiếng chuông giải thoát kia, tôi nghĩ rằng mình sẽ phải về trạm trên một trong những chiếc xe chở những người đã chết hoặc gần như chết do kiệt sức. Không ai có thể tưởng tượng được rằng trong tình huống đó tiếng chuông báo động đã khiến tù nhân chúng tôi cảm thấy nhẹ nhõm như thế nào, ngay cả cảm giác của võ sĩ quyền anh khi nghe tiếng chuông kết thúc hiệp đấu đúng lúc cứu anh ta khỏi nguy cơ đo ván cũng không thể so sánh được.
Chúng tôi biết ơn cả những ân huệ nhỏ nhặt nhất - nếu có thể gọi đó là “ân huệ”. Chẳng hạn như chúng tôi vui mừng khi có thời gian bắt chấy cho nhau trước khi đi ngủ, mặc dù việc này cũng chẳng có gì thú vị do phải đứng trần truồng trong khu nhà không có lò sưởi với tuyết đóng cục trên trần nhà. Nhưng chúng tôi biết ơn nếu như tiếng còi không vang lên trong lúc bắt chấy và đèn không bị tắt. Bởi nếu làm việc đó không xong, chúng tôi sẽ bị lũ chấy rận đánh thức vào lúc nửa đêm.
Những niềm vui ít ỏi về cuộc sống trong trại đã sản sinh một loại hạnh phúc tiêu cực - theo cách nói của triết gia Schopenhauer[9] là một hình thức “thoát khổ” - cho dù sự cứu rỗi đó chỉ mang tính tương đối, tạm thời. Niềm vui thật sự, dù nhỏ nhoi, cũng rất ít. Tôi nhớ có lần tôi đã vẽ một bảng cân bằng hạnh phúc và thấy rằng trong nhiều tuần qua, tôi chỉ có được hai lần vui vẻ. Một lần là lúc trở về trại từ nơi làm việc, sau khi chờ đợi rất lâu, tôi được vào nhà bếp và được xếp vào hàng do một tù nhân - đầu bếp F. phân phát thức ăn. Ông ấy đứng sau một cái chảo lớn và múc xúp vào bát của những tù nhân đang vội vã cầm bát đi qua. Ông ấy là đầu bếp duy nhất không nhìn vào những người đang cầm tô đợi ông múc xúp; là đầu bếp duy nhất múc phần xúp bằng nhau, bất kể người nhận là ai; và là người không ưu ái cho cả những người bạn hoặc đồng hương của mình, thêm cho họ khoai tây trong khi những người khác chỉ được múc một ít xúp toàn nước.
Nhưng thật không phải nếu tôi phán xét những người tù vốn coi trọng tình đồng hương. Ai có thể trách những người này khi họ ưu ái bạn bè của mình hơn trong hoàn cảnh như thế này, bởi không sớm thì muộn, ai ai ở đây cũng phải đối mặt với vấn đề sự sống hay cái chết. Không người nào được quyền phán xét họ trừ khi người đó thực lòng hỏi chính mình rằng liệu trong tình huống tương tự mình sẽ không làm như thế chăng.
Sau một thời gian dài quay trở lại cuộc sống bình thường (một thời gian dài sau khi ra trại), một người đã cho tôi xem những bức ảnh của các tù nhân trong trại tập trung đang nằm chen chúc trên giường, ánh nhìn vô cảm hướng về những người khách viếng thăm. “Thật là khủng khiếp, những khuôn mặt gầy rộc với những đôi mắt toát lên cái nhìn đe doạ - điều ấy đã nói lên tất cả”.
“Tại sao anh lại nghĩ như vậy?”, tôi hỏi, thật sự không hiểu lý do đằng sau lời phán xét kia. Lúc ấy, tôi nhớ lại tất cả mọi việc: 5 giờ sáng, bên ngoài trời vẫn còn tối. Tôi đang nằm trên tấm ván cứng trong khu bệnh xá, nơi có khoảng 70 người đang “được chăm sóc”. Chúng tôi bệnh và không phải rời trại để đi làm; không phải đi xếp hàng. Chúng tôi có thể nằm cả ngày ở một góc nhỏ trong bệnh xá, ngủ chập chờn và chờ đến lúc được phát bánh mì (dĩ nhiên, phần bánh mí sẽ bị cắt giảm) và phần xúp trong ngày (toàn nước và cũng bị giảm số lượng). Nhưng chúng tôi hài lòng; chúng tôi hạnh phúc cam chịu tất cả. Trong lúc nằm cuộn mình vào nhau để giữ ấm, và cũng vì quá lười, không buồn cử động nếu không cần thiết, chúng tôi nghe thấy tiếng còi chát chúa và những tiếng la hét ở ngoài sân, nơi những người làm ca đêm vừa trở về và đang được điểm danh. Cánh cửa mở toang, gió tuyết lạnh lùa vào trong bệnh xá. Một người tù kiệt sức, toàn thân phủ đầy tuyết, chạy vào phòng và ngồi xuống một vài phút. Nhưng tên trạm trưởng lôi anh ấy ra ngoài. Quy định nghiêm ngặt không cho người lạ vào khu nhà trong khi đang tiến hành điểm danh. Tôi thấy thương cảm cho người ấy biết bao và vui mừng vì mình không phải là người ấy, thay vào đó tôi lại ốm và có thể ngủ chập chờn trên những chiếc giường bệnh! Căn bệnh quả thật là một vị cứu tinh cho tôi trong hai ngày ở đó, và tôi có thể được nghỉ thêm hai ngày nữa.
Khi nhìn thấy những tấm ảnh trên tạp chí, ký ức về những ngày nằm bệnh trong trại lại hiện về trong tâm trí tôi. Sau khi nghe tôi giải thích, mọi người đã hiểu tại sao tôi không thấy tấm ảnh là đáng sợ: những người trong các bức ảnh đó có lẽ cũng không quá bất hạnh.
Ngày thứ tư trong khu bệnh xá, tôi vừa bị điều động đi làm ca đêm thì vị bác sĩ trưởng bước vào và muốn tôi tình nguyện phục vụ y tế ở một trại khác đang có nhiều bệnh nhân bị sốt. Mặc kệ lời khuyên của các bạn mình (và bất chấp sự việc rằng hầu như không có đồng nghiệp nào của tôi tình nguyện), tôi vẫn quyết định xung phong. Tôi biết rằng khi nhận công việc đó, có thể tôi sẽ chết sớm. Nhưng nếu tôi phải chết ở đó thì ít nhất cái chết của tôi cũng có ý nghĩa. Tôi nghĩ chắc chắn việc có thể giúp đỡ những người tù khác với tư cách bác sĩ sẽ có ý nghĩa hơn là sống một cuộc đời tẻ nhạt và cuối cùng phí hoài nó trong vai một tên lao động khổ sai vô nghĩa.
Đối với tôi, đây là một phép toán đơn giản, tôi không phải hy sinh gì cả. Nhưng viên sĩ quan từ đội vệ sinh đã bí mật ra lệnh phải “chăm sóc kỹ” hai bác sĩ tình nguyện trong suốt thời gian chúng tôi ở đó. Trông chúng tôi yếu ớt đến nỗi anh ta sợ rằng mình sẽ có thêm hai cái xác hơn là hai bác sĩ.
Như tôi đã đề cập trước đó, ở trong trại tập trung, việc giữ mạng sống của mình và người bạn tù tri kỷ là mối quan tâm thường trực, còn lại thì tất cả những việc không có liên quan tới nhiệm vụ ấy đều bị xếp vào hàng thứ yếu. Mọi sự hy sinh cũng chỉ vì mục đích này. Tính cách của một người có liên quan tới việc người ấy bị vây hãm trong trạng thái bấn loạn, bị đe doạ những giá trị bản thân đến mức khiến cho người ấy trở nên hoài nghi chính những giá trị ấy. Dưới tác động của một thế giới đã không còn công nhận giá trị của cuộc sống và phẩm giá con người, một thế giới đã cướp đi ý chí của con người và biến họ thành đối tượng để tiêu huỷ (kế hoạch đã lập ra, nhưng cần phải sử dụng triệt để đến tận xương tuỷ con người ấy) - bản ngã của con người cũng mất đi chân giá trị. Nếu một người trong trại không đấu tranh chống lại điều này để giữ lấy phẩm giá của mình thì người ấy sẽ mất luôn cảm giác mình là con người - một con người có đầu óc, có sự tự do bên trong và có giá trị riêng. Người đó sẽ nghĩ mình chỉ là một phần của đám đông; sự tồn tại của người đó rơi xuống cấp độ sống của loài thú. Một đám đông bị chăn dắt - đôi khi từ nơi này đến nơi khác; đôi khi đi cùng nhau, rồi tách ra giống như một bầy cừu không có suy nghĩ hoặc ý chí. Một đàn chó săn nhỏ nhưng nguy hiểm luôn rình rập họ khắp nơi, thành thạo trong những màn tra tấn và những trò hung bạo. Chúng không ngừng chăn dắt cả đàn, bao vây phía trước, phía sau, với những tiếng hét, cú đá và những cú quất roi. Và chúng tôi, đàn cừu, chỉ nghĩ được hai việc - làm sao để tránh lũ chó xấu xa và làm sao để có được chút thức ăn.
Giống như một con cừu nhút nhát giữa đàn, mỗi người chúng tôi cố gắng chen vào giữa đội hình. Điều này giúp chúng tôi có cơ hội tránh được những cú đánh của những tên lính gác ở hai bên, phía trước và phía sau hàng. Vị trí trung tâm còn có thuận lợi là được che chắn khỏi những cơn gió lạnh. Vì vậy, để cố gắng giữ ấm, một người sẽ cố gắng len lỏi vào đám đông. Điều này được thực hiện tự động trong các đội hình. Nhưng có nhiều lúc, đây là một nỗ lực có nhận thức ở phía chúng tôi - tuân theo một trong các quy luật bắt buộc nhất để sinh tồn trong trại: Không được gây sự chú ý. Lúc nào chúng tôi cũng cố gắng tránh sự chú ý của bọn SS.
Dĩ nhiên có những lúc cần tách mình khỏi đám đông. Rõ ràng một cuộc sống cộng đồng mà bất cứ điều gì mình làm cũng đều bị để ý, là nguyên nhân thôi thúc con người thoát khỏi đời sống ấy, dù chỉ là trong chốc lát. Người tù muốn ở một mình, với chính mình và với những suy nghĩ của mình. Anh ta khao khát có được sự riêng tư và yên tĩnh một mình. Sau chuyến đi đến nơi được gọi là “trại an dưỡng”, tôi có cơ hội hiếm hoi được yên tĩnh trong khoảng 5 phút. Phía sau khu bệnh xá mà tôi làm việc - nơi có khoảng 50 bệnh nhân mê sảng chen chúc, có một chỗ vắng vẻ ở một góc hàng rào dây thép gai kép bao quanh trại. Đó là nơi một cái lều được dựng tạm bằng vài cái sào và một số cành cây để đặt nửa tá xác chết (con số tử vong bình quân mỗi ngày trong trại). Nơi đó có một cái hầm dẫn nước thông tới các ống nước. Tôi thường ngồi trên cái nắp gỗ của căn hầm này mỗi khi không phải làm việc. Tôi chỉ ngồi và nhìn về phía những triền dốc có hoa xanh mướt và những ngọn đồi xanh mờ xa xa của vùng Bavaria được đóng khung trong những vòng dây thép gai chằng chịt. Tôi đã mơ màng một cách thiết tha, đầu óc lang thang lên vùng phía Bắc và Tây Bắc theo hướng nhà mình, nhưng tất cả những gì tôi thấy được chỉ là những đám mây lơ lửng trên bầu trời.
Những cái xác lúc nhúc giòi bọ bên cạnh cũng không ảnh hưởng đến tôi. Chỉ có bước chân của những tên lính gác đi ngang mới có thể kéo tôi ra khỏi những giấc mơ của mình; hoặc là tiếng gọi từ khu bệnh xá, hoặc là để nhận những đồ dùng y tế mới được chuyển đến bệnh xá - gồm khoảng 5 hoặc 10 viên thuốc aspirin cho 50 bệnh nhân trong nhiều ngày. Tôi nhận thuốc rồi chia đều ra, cảm nhận mạch đập của bệnh nhân và cấp nửa viên thuốc cho những trường hợp bệnh nặng. Những ca bệnh đã đến mức vô phương cứu chữa sẽ không được nhận thuốc. Việc này sẽ chẳng giúp ích gì cho họ, hơn nữa nên dành thuốc cho những người vẫn còn chút ít hy vọng sống. Với những trường hợp nhẹ, tôi chẳng có gì ngoài những lời động viên. Tôi lê bước đến chỗ nằm của từng bệnh nhân, cố gắng an ủi họ mặc dù tôi cũng yếu và mất sức từ lúc bị sốt. Rồi tôi quay lại nơi riêng tư của mình trên cái nắp gỗ che hầm nước.
Cái hầm này có lần đã vô tình cứu mạng của ba người tù. Trước ngày giải phóng không lâu, có nhiều cuộc vận chuyển tù nhân hàng loạt đến Dachau; và ba tù nhân này đã khôn ngoan cố tìm cách để không bị chuyển đi. Họ leo xuống cái hầm và núp ở đó, trốn bọn lính. Tôi bình tĩnh ngồi trên nắp, ra vẻ không biết gì và chơi một trò chơi trẻ con là ném đá qua những hàng rào dây kẽm gai. Nhìn thấy tôi, lính canh ngập ngừng một chút nhưng rồi bỏ qua. Một lúc sau tôi nói với ba người bên dưới rằng điều nguy hiểm tồi tệ nhất đã qua.
Người ở bên ngoài trại thật khó có thể hiểu được rằng cuộc sống của người trong trại hầu như chẳng có giá trị gì. Các tù nhân trong trại tuy chai sạn, nhưng cũng nhận thức rõ rằng khả năng sống sót của những người có mặt trong chuyến vận chuyển người bệnh chắc chắn là con số 0. Những cái xác gầy yếu của người bệnh được ném vào xe đẩy và được những người tù kéo đi trong nhiều dặm, dưới cơn bão tuyết, để đến trại tiếp theo. Nếu một trong số người bệnh chết trước khi chiếc xe được kéo đi, anh ta cũng sẽ bị quẳng lên xe - danh sách phải chính xác! Danh sách là thứ duy nhất quan trọng. Một người chỉ được tính khi anh ấy có một số hiệu. Cái đại diện cho mỗi sinh mạng chỉ là một con số: chết hoặc sống - điều đó không quan trọng; cuộc sống của “một con số” nào có quan trọng gì. Cái gì đằng sau con số ấy và cuộc sống ấy chẳng có giá trị gì: số phận, tiểu sử, tên họ của một con người. Trong chuyến vận chuyển các bệnh nhân mà tôi với tư cách bác sĩ phải đi cùng từ một trại ở Bavaria đến một trại khác, có một tù nhân trẻ mà anh trai của cậu không có trong danh sách và đáng lẽ ra anh ta sẽ bị bỏ lại đằng sau. Cậu bé đã năn nỉ thống thiết đến nỗi người quản trại quyết định sẽ đổi người: có một tù nhân muốn được ở lại và người anh được nhận vào thế chỗ cho người này. Nhưng danh sách phải chính xác! Điều đó thật dễ dàng. Người anh trai chỉ cần đổi số hiệu của mình với một tù nhân khác.
Như tôi đã đề cập trước kia, chúng tôi không có giấy tờ gì; chỉ riêng việc giữ được mạng sống của mình đã là một điều vô cùng may mắn rồi. Còn lại, tất cả đều không quan trọng. Tất cả những điều khác về chúng tôi, chẳng hạn như đống quần áo rách trên bộ xương gầy còm, chỉ được quan tâm nếu chúng tôi bị chỉ định vào chuyến vận chuyển người bệnh. Mọi người lục soát các “Moslem” đã chết một cách thô bạo để xem chiếc áo khoác hoặc đôi giày của họ có tốt hơn của mình hay không. Dù gì thì số phận của họ đã chấm hết, nhưng những người còn lại trong trại vẫn phải làm việc và vì thế phải tận dụng mọi phương tiện để tìm cơ hội sống sót cho mình. Trái tim của người tù dường như đã chai sạn. Họ nhận thấy số mệnh của mình hoàn toàn tùy thuộc vào tâm trạng của những tên lính canh - những quân cờ của số phận - và điều này càng khiến họ ít giống con người hơn.
Trong suốt thời gian ở Auschwitz, tôi đã đưa ra một quy tắc ứng xử cho bản thân, và với kinh nghiệm của mình, tôi có thể khẳng định rằng đây là một quy tắc hữu hiệu. Hầu hết những người bạn tù của tôi sau này cũng noi theo quy tắc này. Nhìn chung, tôi sẽ thành thật trả lời tất cả các câu hỏi và chỉ dừng lại ở đó, tuyệt đối không bàn về những việc không được hỏi tới. Nếu người ta hỏi tôi về tuổi, tôi sẽ trả lời về tuổi. Nếu hỏi tôi về nghề nghiệp, tôi sẽ nói “bác sĩ” nhưng không nói chi tiết. Buổi sáng đầu tiên ở Auschwitz, một lính SS bước đến sân tập trung. Chúng tôi bị chia thành những nhóm nhỏ: nhóm tầm bốn mươi tuổi, nhóm dưới bốn mươi tuổi, nhóm công nhân cơ khí, kỹ sư, và cứ thế. Rồi chúng tôi lại bị tách ra, tạo thành những nhóm mới. Nhóm của tôi bị đưa sang một dãy nhà khác, tại đấy chúng tôi lại phải xếp hàng. Sau khi bị phân loại một lần nữa và trả lời những câu hỏi về tuổi và nghề nghiệp, tôi bị đưa qua một nhóm nhỏ hơn. Một lần nữa, chúng tôi lại bị đưa qua một trạm khác và bị phân nhóm khác. Điều này tiếp diễn thêm vài lần nữa, tôi thấy khổ sở, lạc lõng giữa những người lạ đang nói những thứ ngôn ngữ kỳ quặc. Rồi đến làn xét chọn cuối cùng, tôi thấy mình quay trở lại nhóm mà tôi đã bị xếp vào ở lần phân loại đầu tiên! Họ chắc không để ý rằng tôi đã bị đưa từ trạm này sang trạm khác trong lúc chờ đợi. Nhưng tôi nhận ra trong những phút ngắn ngủi ấy, số phận đã đi lướt qua tôi dưới nhiều hình thái khác nhau.
Khi có đợt chuyển bệnh nhân tới “trại an dưỡng”, tên của tôi (tức số hiệu của tôi) được đưa vào danh sách, bởi vì người ta cần một số bác sĩ. Nhưng không ai tin rằng đích đến thật sự của chuyến đi ấy là trại an dưỡng. Vài tuần trước, một cuộc vận chuyển như thế đã được chuẩn bị. Và mọi người cũng nghĩ rằng nơi đến là lò hơi ngạt. Khi được thông báo những ai tự nguyện làm ca đêm sẽ được đưa ra khỏi danh sách chuyển đi, 82 tù nhân đã xung phong ngay lập tức. Mười lăm phút sau, chuyến vận chuyển bị hủy, nhưng 82 người trong danh sách ca đêm vẫn còn ở đó. Điều này đồng nghĩa với việc hầu hết họ đều chết trong vòng hai tuần tới.
Bây giờ, cuộc vận chuyển đến trại an dưỡng được sắp xếp lần thứ hai. Một lần nữa, không ai biết liệu đây có phải là một trò bịp để dụ một số người bệnh làm việc - dù chỉ trong 14 ngày - hay đó sẽ là chuyến đi đưa họ đến phòng hơi ngạt hoặc đến trại an dưỡng thực sự. Bác sĩ trưởng, người thích tôi, lên nói cho tôi vào lúc 10 giờ kém 15 phút đêm ấy: “Tôi đã nói với mọi người trong phòng rằng anh có thể gạch tên mình khỏi danh sách trước 10 giờ”
Tôi nói với ông rằng đó không phải là cách hành xử của tôi; rằng tôi đã học được cách để số phận tự nó diễn ra. “Tôi sẽ ở cùng với các bạn của mình”, tôi nói. Có gì đó thương cảm trong ánh mắt của ông, như thể ông đã biết sự thật đằng sau cuộc vận chuyển này. Ông nhẹ nhàng bắt tay tôi, như thể đó là lời tạm biệt, không phải cho cuộc sống, mà từ cuộc sống. Tôi chầm chậm đi về lều của mình. Ở đó, tôi thấy một người bạn mà tôi rất tin tưởng đang chờ.
− Anh thật sự muốn đi với họ sao? - Anh ấy buồn bã hỏi.
− Ừ, tôi sẽ đi.
Anh ấy khóc, và tôi cố an ủi anh ấy. Còn một việc nữa phải làm - tôi lấy lại bình tĩnh và nói:
− Nghe này Otto, nếu tôi không thể trở về nhà với vợ tôi, và nếu anh cóthể gặp lại cô ấy, hãy nói với cô ấy rằng tôi đã nói chuyện với cô ấy hàng ngày, hàng giờ. Anh hãy nhớ nhé. Thứ hai, tôi yêu cô ấy hơn bất cứ ai. Thứ ba, tuy chỉ cưới cô ấy trong thời gian ngắn, nhưng điều ấy có ý nghĩa lớn lao đối với tôi, thậm chí hơn tất cả những gì chúng ta đã trải qua ở đây.
Otto, bây giờ anh đang ở đâu? Anh vẫn còn sống chứ? Chuyện gì đã xảy ra với anh từ giây phút cuối chúng ta ở cạnh nhau? Anh có tìm thấy vợ tôi không? Và anh có nhớ tôi đã bắt anh học thuộc lòng những lời nói của tôi từng từ một - như thế nào không, mặc dù anh đã khóc như trẻ con?
Sáng hôm sau, tôi bị chuyển đi theo đoàn. Lần này không phải là trò bịp. Chúng tôi không đi đến phòng hơi ngạt mà thật sự đến trại an dưỡng. Những người đã thương tiếc cho tôi vẫn ở lại trong trại cũ với điều kiện sống còn tồi tệ hơn ở trại mới của chúng tôi. Họ đã cố tự cứu mình, nhưng việc ấy rốt cuộc chỉ là sự đóng đinh của chính họ vào số phận. Nhiều tháng sau, khi đã được tự do, tôi gặp lại một người bạn ở trại cũ. Anh ấy, một kiểm soát viên trong trại, đã kể cho tôi nghe việc anh đã tìm thấy những mảnh thịt người bị cắt ra từ các xác chết đang được nấu trong nồi như thế nào. Trong trại đã xảy ra tình trạng ăn thịt người. Tôi đã rời khỏi đó đúng lúc.
Điều này khiến tôi nhớ đến câu chuyện về thần chết ở Teheran. Một lần nọ, một người Ba Tư giàu có đang đi dạo trong vườn cùng người đầy tớ của mình. Người hầu ấy khóc rằng anh ta vừa mới gặp Thần Chết và bị Thần Chết dọa nạt. Anh cầu xin chủ nhân cho mình một con ngựa chạy thật nhanh để có thể trốn đến Teheran vào buổi chiều hôm ấy, Người chủ bằng lòng và người hầu phi nước đại trên lưng ngựa. Khi trở về nhà, chính người chủ lại gặp Thần Chết và ông đã hỏi: “Tại sai ngài dọa nạt và làm tên hầu của ta khiếp sợ?”. Ta chẳng dọa nạt gì cả, ta chỉ tỏ vẻ ngạc nhiên vì thấy hắn ở đây mà thôi. Theo dự tính, ta sẽ gặp hắn ở Teheran đêm nay”, Thần Chết nói.
Người tù thường rất sợ hãi khi phải đưa ra quyết định và hành động. Đó là kết quả từ niềm tin rằng số phận làm chủ con người, và rằng con người không nên cố tác động vào số phận bằng bất cứ cách nào mà hãy để nó tự diễn ra. Ngoài ra, sự vô cảm cũng góp phần không nhỏ trong việc tác động đến tâm lý của người tù. Có một số khoảnh khắc cần phải đưa ra quyết định thật nhanh, quyết định sẽ đem lại sự sống hoặc cái chết, thì người tù vẫn muốn để số phận định đoạt cho mình. Sự tránh né này thể hiện rõ ràng nhất khi người tù phải đưa ra quyết định ở lại hay bỏ trốn. Trong thời khắc phải đưa ra quyết định - thời khắc này thường kéo dài vài phút - anh ta luôn phải chịu đựng sự hành hạ của Địa Ngục. Mình có nên thử bỏ trốn? Mình có nên mạo hiểm?
Tôi cũng đã từng trải qua cảm giác khổ sở như vậy. Khi trận địa tiến đến gần hơn, tôi đã có cơ hội bỏ trốn. Một đồng nghiệp của tôi được phái đến các khu trạm bên ngoài trại để thực hiện nhiệm vụ y tế có ý định bỏ trốn và đưa tôi đi cùng anh ấy. Trong lúc giả vờ bàn bạc về ca bệnh đòi hỏi lời tư vấn của chuyên gia, anh ấy lôi tôi ra ngoài. Bên ngoài trạm, một thành viên của phong trào kháng chiến nước ngoài sẽ đưa cho chúng tôi đồng phục và tài liệu. Vào phút cuối, do một vài trục trặc kỹ thuật, chúng tôi buộc phải trở về trại. Chúng tôi đã tranh thủ cơ hội này để chuẩn bị một số đồ đạc cho mình một ít khoai tây hư - và tìm một chiếc ba lô.
Chúng tôi lao vào một căn lều bỏ trống của một trại nữ, lều bỏ hoang vì họ đã bị chuyển sang một trại khác. Lều trại khá lộn xộn; rõ ràng nhiều người đã đem theo nhiều đồ đạc và bỏ đi. Có nhiều đồ rách nát, nón rơm, thức ăn hư và bát đĩa vỡ. Một vài cái tô vẫn còn trong tình trạng tốt và rất có giá trị đối với chúng tôi, nhưng chúng tôi quyết định không mang đi. Chúng tôi biết rằng trong tình trạng thiếu thốn cùng cực, họ không chỉ sử dụng những cái tô ấy để ăn mà còn làm chậu rửa và bô tiểu. (Có quy định nghiêm cấm sử dụng bất kỳ đồ gia dụng nào trong trại. Tuy nhiên, một vài người buộc phải phá luật, nhất là các bệnh nhân bị sốt phát ban, những người quá yếu để đi ra ngoài cho dù có được giúp đỡ). Trong khi tôi đứng canh gác bê ngoài, bạn tôi bước vào lều và nhanh chóng trở ra với một cái ba lô mà anh giấu dưới áo khoác. Anh ấy đã nhìn thấy một cái khác ở bên trong và tôi sẽ lấy nó. Vì vậy chúng tôi đổi chỗ và tôi tiến vào trong. Khi lục lọi trong đống rác, tôi tìm thấy một chiếc ba lô và cả một cái bàn chải. Đột nhiên tôi nhìn thấy một cái xác phụ nữ giữa những thứ đồ mà họ bỏ lại.
Tôi chạy về lều của mình và gom hết đồ đạc: tô đựng thức ăn, đôi găng tay bị rách được “thừa kế” từ một bệnh nhân đã chết vì sốt, và một ít giấy vụn có những ghi chú về công trình khoa học mà tôi phải bỏ dở lúc bị bắt (như đã nói trước đó, tôi bắt đầu tái cấu trúc lại bản thảo mà tôi đã bị mất ở Auschwitz). Tôi kiểm tra một lượt các bệnh nhân của mình, những người đang nằm co quắp trên những tấm ván mục được kê thành hai dãy trong bệnh xá. Tôi đến bên cạnh người đồng hương duy nhất của mình, người gần như sắp chết và mạng sống của anh ấy được tôi cố gắng níu kéo bất chấp tình trạng hiện tại của anh. Tôi phải giữ ý định trốn khỏi đây, nhưng người bạn của tôi dường như đã đoán ra được điều gì đó (có lẽ tôi có một chút căng thẳng). Bằng giọng yếu ớt, anh ấy hỏi tôi: “Cả anh cũng bỏ đi nữa à?”. Tôi chối, nhưng tôi thấy khó mà tránh khỏi ánh nhìn buồn bã của anh ấy. Một lần nữa, ánh nhìn vô vọng của anh khiến tôi có cảm giác tội lỗi. Cảm giác khó chịu đã bám lấy tôi từ lúc tôi nhận lời trốn cùng người bạn bây giờ lại càng trở nên mạnh mẽ. Bỗng nhiên tôi quyết định đặt số phận trong tay mình lần nữa. Tôi chạy ra khỏi lều và nói với anh bạn kia rằng tôi không thể đi cùng anh ấy. Ngay khi tôi nói rằng tôi đã quyết định sẽ ở lại với các bệnh nhân của mình, cảm giác khó chịu trong tôi bỗng trôi tuột đi. Tôi không biết những ngày sắp tới sẽ xảy ra chuyện gì, nhưng tôi đã tìm thấy sự bình yên bên trong mà tôi chưa từng trải qua trước đó. Tôi trở lại lều, ngồi trên tấm phản dưới chân người đồng hương, cố trấn an anh; rồi tôi trò chuyện với những người khác, cố gắng làm cho họ bớt mê sảng.
Ngày cuối cuối cùng trong trại của chúng tôi đã đến. Khi mặt trận tiến đến sát bên, cuộc chuyển tù hàng loạt đã được tiến hành. Các viên chức trong trại, các Capo và các đầu bếp đã bỏ trốn. Trong ngày này, giới chỉ huy trong trại ra lệnh di tản toàn trại trước hoàng hôn. Thậm chí một số ít tù nhân còn lại (người bệnh, các bác sĩ, và một vài “y tá”) cũng phải rời đi. Đến đêm, trại bị đốt cháy. Vào buổi trưa, các xe tải tiếp nhận người bệnh vẫn chưa đến. Thay vào đó, tất cả các cánh cổng trại bỗng nhiên bị đóng lại và hàng rào kẽm gai được bọn lính SS giám sát chặt chẽ để không một ai có thể trốn thoát. Các tù nhân còn lại có nguy cơ bị thiêu cháy cùng với trại. Lần thứ hai, tôi và bạn tôi quyết định bỏ trốn.
Chúng tôi được lệnh phải chôn ba xác người bên ngoài hàng rào kẽm gai. Trong trại chỉ còn có hai chúng tôi đủ sức làm việc này. Gần như tất cả những người khác đều đang nằm trong các dãy nhà còn dùng được, sốt mê man. Chúng tôi lên kế hoạch: Chúng tôi sẽ giấu chiếc ba lô của bạn tôi trong cái chậu giặt đồ cũ vốn được dùng như cái quan tài và chuyển nó ra ngoài cùng với cái xác đầu tiên. Khi chuyển cái xác thứ hai, chúng tôi sẽ giấu ba lô của tôi bên trong và đến lần chuyển xác thứ ba, chúng tôi sẽ bỏ trốn. Hai chuyến đầu tiên diễn ra theo đúng kế hoạch. Sau khi trở về, tôi đợi anh bạn đi tìm một ít bánh mì để chúng tôi có thể ăn trong vài ngày tới trong rừng. Tôi chờ đợi. Mười phút trôi qua. Tôi trở nên mất kiên nhẫn khi không thấy anh ấy quay lại. Sau ba năm trong tù, nhiều lần tôi đã mường tượng khung cảnh ngày tự do, cảm giác tuyệt vời khi được chạy đến chiến tuyến. Nhưng ngày ấy vẫn chưa đến.
Vào lúc bạn tôi quay trở lại, cánh cổng trại mở ra. Một chiếc xe tuyệt đẹp, màu sáng, sơn một chữ thập đỏ lớn, chầm chậm chạy vào trong. Một phái đoàn từ Hội Chữ Thập Đỏ Quốc Tế ở Geneva đã đến, trại và những người tù được bảo vệ dưới quyền kiểm soát của những người này. Phái đoàn tạm trú trong một trang trại ở vùng lân cận để có thể đến được trại vào bất cứ lúc nào trong trường hợp khẩn cấp. Giờ thì ai thèm quan tâm về việc chạy trốn nữa chứ? Những chiếc hộp đựng đầy thuốc được dỡ xuống khỏi xe, thuốc lá được phân phát, người ta chụp ảnh chúng tôi, không bao giờ chúng tôi có thể quên niềm hạnh phúc dâng trào tại thời khắc ấy. Giờ thì chúng tôi không cần phải mạo hiểm chạy đến nơi chiến sự nữa.
Trong lúc vui mừng, chúng tôi quên mất cái xác thứ ba, vì vậy chúng tôi khiêng cái xác ra ngoài và đặt vào cái huyệt nhỏ mà chúng tôi đã đào cho ba xác chết. Người lính canh đi cùng với chúng tôi - một người khá hiền lành đột nhiên trở nên hòa nhã. Anh ấy thấy tình thế có thể đã thay đổi và cố gắng lấy lòng chúng tôi. Anh ấy tham dự buổi cầu nguyện ngắn dành cho những người chết trước khi lấp đất. Sau những căng thẳng và hào hứng trong những giờ phút vừa rồi, sau những ngày cuối cùng trong cuộc đua của chúng tôi với tử thần, những lời cầu nguyện tha thiết của chúng tôi cho sự thanh thản, bình an cuối cùng cũng được nhiệt thành cất lên.
Chúng tôi trải qua ngày cuối cùng trong trại với tâm trạng háo hức chờ đón tự do. Nhưng chúng tôi đã vui mừng quá sớm. Phái đoàn Chữ Thập Đỏ đảm bảo với chúng tôi rằng một thỏa thuận đã được ký kết và trại sẽ không bị sơ tán. Nhưng vào đêm đó, bọn lính SS đã đến với những chiếc xe tải và mang theo lệnh sơ tán. Những tù nhân cuối cùng ở lại sẽ được chuyển đến trại trung tâm, từ nơi đó chúng tôi sẽ được chuyển đến Thụy Điển trong vòng 48 tiếng để đổi lấy một số tù nhân chiến tranh. Chúng tôi khó mà nhận ra các lính SS lúc này. Họ rất thân thiện, cố gắng thuyết phục chúng tôi đừng sợ khi bước lên xe, nói rằng chúng tôi nên biết ơn vì sự may mắn này. Những người còn khỏe tập trung trong xe tải, còn những người bệnh nặng và yếu sức được khiêng lên. Tôi và bạn tôi - chúng tôi lúc này không cần giấu những chiếc ba lô nữa - đứng ở nhóm cuối, từ nhóm đó 13 người sẽ được chọn cho chuyến xe cuối cùng. Vị bác sĩ trưởng đếm số lượng cần thiết, nhưng ông ấy đã bỏ sót hai chúng tôi. Người thứ 13 đã được đưa lên xe tải còn chúng tôi bị bỏ lại phía sau. Tâm trạng chúng tôi nhanh chóng đi từ ngạc nhiên đến tức giận và thất vọng, chúng tôi trách vị bác sĩ trưởng. Ông xin lỗi, nói rằng vì quá mệt và bị phân tâm, ông nghĩ rằng chúng tôi vẫn còn có ý định muốn bỏ trốn. Chúng tôi ngồi xuống mà cơn giận vẫn dâng trào, trên vai vẫn còn đeo những chiếc ba lô, cả hai cùng với những tù nhân còn lại chờ đợi chuyến xe cuối. Chúng tôi phải đợi rất lâu. Cuối cùng, chúng tôi nằm trên những tấm nệm trong căn phòng bỏ trống của lính canh, kiệt sức vì đã phấn khích trong những ngày giờ qua, dao động liên tục giữa tâm trạng hy vọng và thất vọng. Chúng tôi ngủ thiếp đi, để nguyên cả quần áo, giày dép trên người để sẵn sàng cho chuyến đi.
Tiếng ồn từ súng trường và đạn pháo đánh thức chúng tôi; các vệt sáng của súng đạn đan chéo trong phòng. Vị bác sĩ trưởng xông vào và ra lệnh cho chúng tôi nằm úp xuống sàn nhà. Một tù nhân từ trên giường nhảy xuống, đạp trúng bụng tôi. Tôi tỉnh giấc hoàn toàn! Rồi chúng tôi hiểu chuyện gì đang xảy ra: chiến trường đã lan đến chỗ chúng tôi! Tiếng súng rồi cũng ngớt và bình minh ló dạng. Bên ngoài, trên chiếc cọc ngay cổng trại, một chiếc cờ trắng bay phấp phới trong gió.
Nhiều tuần sau, chúng tôi nhận ra rằng ngay cả trong những giờ phút cuối cùng đó, số phận vẫn đùa giỡn với số ít tù nhân còn lại chúng tôi. Chúng tôi nhận ra sự mong manh của kiếp người, đặc biệt là trong những thời khắc giữa sự sống và cái chết. Người ta đưa cho tôi những tấm hình đã được tìm thấy trong một trại nhỏ cách trại của chúng tôi không xa. Các bạn của chúng tôi, những người đã nghĩ rằng họ đang trên đường đến với tự do vào đêm hôm ấy, đã bị đưa lên những chiếc xe tải chở đến trại này, ở đó họ bị nhốt trong những dãy nhà kho khóa chặt và bị thiêu cho đến chết. Những thi thể bị cháy thành than ở nhiều chỗ đã được nhận diện trên tấm ảnh. Một lần nữa, tôi lại nghĩ về câu chuyện Thần Chết ở Teheran.
Ngoài vai trò như một cơ chế bảo vệ, sự vô cảm của người tù cũng là kết quả từ nhiều nhân tố khác. Đói và thiếu ngủ góp phần vào trạng thái đó (giống như trong cuộc sống bình thường) và tính cáu bẳn - một đặc điểm khác trong trạng thái thần kinh của người tù. Sự thiếu ngủ một phần là do đám chấy rận lúc nhúc trong các lều trại đông đúc thiếu vệ sinh và hệ thống nhà xí bẩn thỉu. Việc cơ thể chúng tôi không được cung cấp nicotin và cafein cũng là nguyên nhân góp phần tạo ra sự vô cảm và tính cáu bẳn.
Ngoài những nguyên nhân bên ngoài này, các tác nhân tinh thần cũng góp phần dẫn đến những diễn biến tâm lý phức tạp của người tù. Trong đa số tù nhân đều có phức cảm tự ti. Tất cả chúng ta đều một lần hoặc đã từng tưởng tượng mình là “một người nào đó”. Ở trong trại, chúng tôi bị đối xử như những sinh vật vô giá trị. (Nhận thức về giá trị bên trong của một người nằm ở mức độ cao hơn, mang tính tâm linh hơn và không thể bị dao động bởi cuộc sống trong trại. Nhưng có bao nhiêu người tự do, không tính những người tù, nhận thức được điều này?). Không cần nghĩ về điều đó thì người tù cũng đã có cảm giác bị thoái hóa rồi. Điều này thể hiện rõ khi quan sát sự tương phản trong cấu trúc xã hội đơn lẻ của trại. Như một quy luật ở trại, những tù nhân, Capo, đầu bếp, người giữ kho, các cảnh sát viên càng “nổi tiếng” thì họ càng ít có cảm giác bị thoái hóa như đa số các tù nhân khác, mà ngược lại, còn có cảm giác được nâng cấp! Một vài người thậm chí còn tạo ra những ảo tưởng về sự vĩ đại. Phản ứng tâm lý của số đông ghen tị và chống đối với thiểu số có lợi này thể hiện ở nhiều cách khác nhau, đôi khi là trong các câu chuyện đùa. Ví dụ, tôi nghe một tù nhân nói với một tù nhân khác về một Capo rằng: “Xem này! Tôi biết cái tên ấy khi hắn chỉ là chủ tịch của một ngân hàng lớn. Số của hắn phải đỏ lắm mới leo lên được thế này!”.
Bất cứ khi nào số đông bị giáng cấp và thiểu số được thăng cấp thì sẽ nảy sinh xung đột (có rất nhiều dịp xảy ra việc này, bắt đầu từ việc phân phát thức ăn), và kết quả là các xung đột này sẽ bùng nổ. Vì vậy, cường độ cáu bẳn (mà nguyên nhân từ thể chất đã được nói ở trên) gia tăng cùng với những căng thẳng thần kinh. Chẳng có gì ngạc nhiên khi tình trạng căng thẳng này thường kết thúc bằng nắm đấm. Bởi vì tù nhân cứ phải liên tục chứng kiến những cảnh đánh nhau cho nên tính bạo lực trong họ cũng gia tăng. Chính tôi đã cảm thấy nắm tay của mình siết chặt lại khi tức giận trong những lúc đói khát và mệt mỏi. Tôi thường rất mệt bởi vì phải canh để cho than vào bếp lò cả đêm (chúng tôi được phép giữ nó trong bệnh xá cho những bệnh nhân bị sốt). Tuy nhiên, tôi có được vài giờ tĩnh lặng cho riêng mình vào giữa đêm, khi mọi người hoặc đã ngủ yên, hoặc chìm trong cơn mê sảng. Tôi có thể nằm duỗi người trước lò than và nướng một ít khoai tây đã ăn cắp được. Nhưng ngày hôm sau tôi còn cảm thấy mệt mỏi hơn, căng thẳng và dễ cáu bực hơn.
Trong lúc chăm sóc các bệnh nhân trong khu bệnh xá với tư cách một bác sĩ, tôi cũng phải làm luôn việc của người lính canh đang bị bệnh. Vì vậy, tôi có trách nhiệm giữ lều trại sạch trước ban quản lý trại - nếu từ “sạch” có thể được dùng trong trại để mô tả cho điều kiện sống như vậy. Việc giả bộ kiểm tra lều trại thường được thực hiện với mục đích tra tấn hơn là vệ sinh. Giá như họ có thể cung cấp thêm thực phẩm và một ít thuốc men, nhưng mối quan tâm duy nhất của những giám sát viên là cọng rơm đã được quét khỏi phòng chưa hay những chiếc khăn bẩn, rách nát và đầy chí của bệnh nhân có được xếp gọn gàng dưới chân họ không. Giống như số phận của các tù nhân, chúng thường không được chú ý đến. Nếu tôi khôn khéo báo cáo, dỡ nón khỏi cái đầu trọc của mình và dậm chân: “Trạm số VI/9: 52 bệnh nhân, hai y tá, và một bác sĩ” thì họ sẽ hài lòng và rời khỏi. Nhưng cho đến lúc họ đến thường sẽ trễ hơn vài giờ so với thông báo, và đôi khi chẳng hề có thông báo gì - tôi vẫn phải giữ tấm chăn thật thẳng, nhặt từng cọng rơm nhỏ rơi từ trên giường và la hét những con quỷ tội nghiệp đang làm bừa bộn giường, đe doạ họ vì đã phá hỏng bao công sức của tôi trong việc giữ cho lều trại được gọn gàng và sạch sẽ. Sự vô cảm đặc biệt gia tăng trong các tù nhân bị sốt, vì họ không có phản ứng nào trừ khi bị la hét. Thậm chí có khi la hét cũng chẳng ích gì, và tôi phải kiềm chế lắm mới không đánh họ. Sự tức giận của một người tỷ lệ thuận trước sự vô cảm của đối phương, nhất là khi nguy hiểm đang tới gần (chẳng hạn như sắp bị kiểm tra).
Khi cố gắng lý giải về những đặc điểm tâm lý tiêu biểu của người tù trong trại, tôi nhấn mạnh việc con người hoàn toàn bị ảnh hưởng bởi môi trường xung quanh. (Trong trường hợp này, môi trường xung quanh là cấu trúc duy nhất về cuộc sống trong trại mà người tù buộc phải thích ứng theo một khuôn mẫu nào đó). Thế còn sự tự do của con người thì sao? Chẳng lẽ không có sự tự do về tinh thần trong hành vi và phản ứng của con người trước môi trường xung quanh sao? Có phải lý thuyết cho rằng con người chẳng qua chỉ là một sản phẩm của hoàn cảnh và môi trường là đúng? - Tính cách của con người được quyết định bởi các nhân tố thuộc về bản chất sinh học, tâm lý hoặc xã hội? Có phải con người là một sản phẩm ngẫu nhiên của những điều này? Điều quan trọng hơn, các phản ứng của người tù đối với thế giới duy nhất là trại tập trung có chứng minh được rằng con người không thể thoát khỏi tác động của môi trường xung quanh? Có phải con người không có lựa chọn cho hành động của mình trước những hoàn cảnh này?
Chúng tôi có thể trả lời những câu hỏi này từ trải nghiệm cũng như từ niềm tin của mình. Những trải nghiệm từ cuộc sống trong trại cho thấy con người có sự lựa chọn cho hành động của mình. Có đủ ví dụ cho điều này, thường là về bản tính quả cảm, chứng minh rằng con người có thể vượt qua sự vô cảm và kiềm chế sự tức giận. Con người có thể giữ vững sự tự do về tinh thần, sự độc lập về tâm trí, ngay cả trong những điều kiện tồi tệ do căng thẳng về tinh thần lẫn thể chất.
Chúng tôi, những người đã sống trong trại có thể nhớ đến những người đã đi bộ qua các dãy nhà để động viên những người khác, chia sẻ với họ mẩu bánh mì cuối cùng của mình. Có thể họ chỉ có vài người, nhưng điều đó cũng đủ để chứng minh rằng người ta có thể lấy đi của một người mọi thứ, chỉ trừ một điều: sự tự do - sự tự do trong việc lựa chọn thái độ sống trong bất kỳ hoàn cảnh nào, và sự tự do lựa chọn hướng đi của mình.
Và luôn có những lựa chọn mà ta phải quyết định. Mỗi một ngày, mỗi một giờ thường đem đến cho ta cơ hội để đưa ra quyết định, quyết định về việc bạn sẽ khuất phục hay ngẩng cao đầu trước những thế lực đang đe doạ cướp đi con người thật của bạn, cướp đi sự tự do bên trong của bạn; quyết định về việc bạn có trở thành trò đùa của hoàn cảnh, chối bỏ sự tự do và phẩm giá của mình để bị nhào nặn thành hình nhân tiêu biểu cho phận tù hay không.
Theo quan điểm này, các phản ứng tâm lý của người tù trong trại dường như xuất phát từ chính bản thân họ hơn là từ tác động của những điều kiện nhất định về vật chất và xã hội. Thậm chí ngay cả các điều kiện như thiếu ngủ, thiếu ăn và các kiểu căng thẳng thần kinh có thể gợi ý rằng người tù bị buộc phải phản ứng theo những cách nhất định thì trong phân tích cuối cùng, rõ ràng người tù trở thành loại người nào là kết quả từ quyết định bên trong của họ, chứ không đơn thuần chỉ là kết quả từ ảnh hưởng của hoàn cảnh sống trong trại. Vì vậy, về cơ bản, bất cứ ai cũng có thể quyết định mình sẽ trở thành người như thế nào về mặt tinh thần và tâm hồn, ngay cả trong những hoàn cảnh như thế. Người ấy vẫn có thể giữ lại phẩm giá của mình, dù là ở trong trại tập trung. Dostoevski đã nói rằng: “Chỉ có một điều mà tôi sợ: không xứng đáng với những đau khổ của mình”. Những lời này thường hiện lên trong đầu tôi sau khi tôi quen biết những người mà cách cư xử ở trại, sự chịu đựng và cái chết của họ đã xác nhận một điều rằng sự tự do còn lại bên trong tâm hồn không thể mất đi. Mọi người có thể nói rằng họ đã xứng đáng với những đau khổ của họ; cách họ trải qua đau khổ đã là một thành công đích thực. Chính sự tự do về tinh thần này - vốn không thể bị cướp đi - đã khiến cuộc sống trở nên có ý nghĩa và có mục đích.
Một cuộc sống chủ động đem lại cho con người cơ hội nhận ra giá trị trong những công việc sáng tạo, trong khi một cuộc sống hưởng thụ thụ động mang lại cơ hội để trải nghiệm cái đẹp, nghệ thuật hoặc tự nhiên. Nhưng trong cuộc sống còn có một kết quả khác mà hầu như không đem lại sự sáng tạo lẫn việc hưởng thụ, một cuộc sống chỉ chấp nhận một khả năng duy nhất về hành vi đạo đức: đó là thái độ của con người về sự tồn tại của mình, một sự tồn tại bị giới hạn bởi các tác nhân bên ngoài. Người đó bị cấm đoán sống một cuộc sống sáng tạo lẫn một cuộc sống hưởng thụ. Nhưng không chỉ có cuộc sống sáng tạo và cuộc sống hưởng thụ mới có ý nghĩa. Nếu cuộc sống có ý nghĩa, thì sự đau khổ nhất định cũng phải có ý nghĩa. Đau khổ là một phần không thể thiếu trong cuộc sống, thậm chí giống như số phận và cái chết. Không có đau khổ và cái chết, cuộc sống của con người không thể hoàn thiện.
Cách một người chấp nhận số phận và những đau khổ của mình, cách một người dám vượt qua những thử thách đó đem lại cho người ấy nhiều cơ hội để hiểu được ý nghĩa sâu xa hơn của cuộc sống ngay cả trong những hoàn cảnh khắc nghiệt nhất. Người đó có thể giữ được lòng dũng cảm, tự trọng và bao dung. Hoặc trong lúc đấu tranh sinh tồn, người đó có thể quên đi phẩm giá của mình và trở nên không khác gì một con thú. Ở đây ẩn chứa cơ hội mà một người có thể tận dụng hoặc bỏ qua để nắm giữ các giá trị đạo đức mà nghịch cảnh đem lại. Và điều này quyết định việc người đó có xứng đáng với nỗi đau khổ của mình hay không.
04
Đừng nghĩ rằng những suy xét này cao xa và quá viển vông. Đúng là chỉ có một số ít người mới có thể chạm tay vào các tiêu chuẩn đạo đức cao như thế. Chỉ có một số ít tù nhân giữ được sự tự do bên trong và hiểu được giá trị mà những đau khổ đem lại, nhưng chỉ riêng những ví dụ ấy thôi cũng đã đủ chứng minh rằng sức mạnh bên trong của con người có thể giúp người ấy vượt lên số phận. Những người như vậy không chỉ có ở trong các trại tập trung. Ở đâu con người cũng phải đương đầu với số phận và cũng có cơ hội đạt được điều gì đó từ chính nỗi đau của mình.
Hãy lấy số phận của những người bị bệnh, nhất là những người mắc bệnh nan y, làm ví dụ. Có lần tôi đọc được lá thư của một cậu bé bị bệnh viết cho người bạn của mình. Trong thư, cậu bé nói rằng cậu vừa biết mình sắp chết, và việc phẫu thuật cũng chẳng giúp gì. Cậu ấy nhớ lại một bộ phim mà mình đã từng xem, trong đó kể về hình ảnh một người đang chờ đón cái chết với lòng dũng cảm và tự trọng. Cậu bé đã nghĩ rằng đó là một thái độ sống đáng nể phục. Giờ đây - cậu viết - số phận đã đem lại cho cậu một cơ hội tương tự.
Những ai trong chúng ta từng xem bộ phim Phục sinh chuyển thể từ tiểu thuyết của Tolstoy nhiều năm trước có lẽ cũng có ý nghĩ tương tự. Phim kể về nhiều số phận thú vị và nhiều con người tuyệt vời. Đối với chúng tôi vào lúc đó, số phận chẳng có gì lớn lao, cũng không có cơ hội đạt được điều gì vĩ đại. Sau khi xem phim xong, chúng tôi bước vào một tiệm cà phê gần nhất, uông một ly cà phê và ăn một cái bánh sandwich, và quên mất những ý nghĩ trừu tượng kỳ lạ vừa lướt qua đầu mình. Nhưng khi phải đối mặt trước bước ngoặt cuộc đời và buộc phải đưa ra các quyết định của mình, nếu không còn nhớ chút gì về quyết tâm của thời tuổi trẻ nhiều năm về trước, chúng tôi sẽ thất bại.
Có lẽ một ngày nào đó, chúng ta sẽ có dịp chiêm nghiệm cảm giác này khi xem lại bộ phim ấy hoặc một tác phẩm tương tự. Nhưng đến lúc ấy, những bức tranh khác cùng lúc sẽ được mở ra trong tâm tưởng chúng ta - đó là hình ảnh về những con người mà cuộc đời họ có thể nói lên nhiều điều hơn cả những tình tiết của một bộ phim. Một số chi tiết về sự vĩ đại bên trong một con người đặc biệt có thể sẽ đến với tâm trí chúng ta, giống như câu chuyện về một thiếu nữ mà tôi đã chứng kiến cái chết của cô trong trại tập trung. Đấy là một câu chuyện rất bình thường. Có rất ít điều để kể và nghe có vẻ như thể tôi bịa ra nó, nhưng đối với tôi nó giống như một bài thơ.
Cô gái trẻ biết rằng mình sẽ từ biệt cõi đời trong một vài ngày tới. Nhưng khi tôi nói chuyện với cô, cô rất vui. “Tôi biết ơn vì số phận đã nghiệt ngã với mình”, cô nói. “Trong cuộc sống trước kia của mình, tôi chẳng là gì và không đạt được sự trưởng thành đáng kể nào cả”. Chỉ tay qua phía cửa sổ của trạm xá, cô nói: “Cái này là người bạn duy nhất của tôi lúc cô đơn”. Qua cánh cửa sổ đó, cô chỉ có thể nhìn thấy một cành của cây dẻ, và trên cành cây đó có hai đoá hoa.“Tôi thường nói chuyện với cái cây này”, cô gái nói. Tôi ngạc nhiên và hoàn toàn không biết phải hiểu lời nói của cô như thế nào. Có phải cô đang bị mê sảng không? Hay cô đang bị ảo giác? Lo lắng, tôi hỏi cô rằng cái cây có trả lời cô không. “Có chứ”. “Nó nói gì với cô?”, tôi hỏi. Cô trả lời: “Nó nói với tôi rằng: “Tôi đây - tôi đây - tôi là sự sống, sự sống bất diệt”.
Như đã nói, tác nhân chịu trách nhiệm cuối cùng cho trạng thái bên trong của người tù không phải là các tác nhân tâm sinh lý mà phần nhiều là kết quả của một quyết định tự do. Các cuộc nghiên cứu về tâm lý tù nhân đã chứng minh rằng chỉ những người nào giữ được tâm hồn và tinh thần bên trong tĩnh tại thì mới không trở thành nạn nhân của những ảnh hưởng suy đồi trong trại. Câu hỏi lúc này mới xuất hiện, rằng cái gì có thể, hoặc sẽ tạo thành “sự kìm giữ bên trong” này?
Các cựu tù nhân, khi viết hoặc nói về những trải nghiệm của họ, đều đồng ý rằng việc họ không biết mình còn phải ở tù bao lâu nữa khiến họ vô cùng chán nản. Họ không biết ngày nào mình sẽ được thả ra. (Trong trại của chúng tôi, cho dù có được nhắc tới thì đó cũng là một đề tài vô vị.) Thực ra, thời gian ở tù không những không xác định mà còn không giới hạn. Một nhà nghiên cứu tâm lý học nổi tiếng đã chỉ ra rằng cuộc sống trong trại tập trung có thể gọi là “sự tồn tại tạm bợ”. Chúng tôi bổ sung bằng cách định nghĩa nó là “sự tồn tại tạm bợ và vô hạn định”.
Những người mới đến thường chẳng biết gì về điều kiện ở trại tập trung. Những người đã trở về từ những trại khác bị bắt phải giữ im lặng, và ở một số trại thì chẳng có ai trở về. Khi bước vào trại tập trung, sự thay đổi diễn ra ngay lập tức trong tâm trí mọi tù nhân. Với một cái kết không chắc chắn thì sự không chắc chắn về một cái kết là điều hiển nhiên. Thật không thể đoán trước được khi nào hoặc bao giờ hình thái tồn tại này mới chấm dứt.
Từ finis trong tiếng Latin có hai nghĩa: nghĩa thứ nhất là sự kết thúc hoặc chấm dứt, và nghĩa thứ hai là một mục đích để vươn tới. Một người không thể nhìn thấy sự kết thúc của việc “tồn tại tạm bợ” của mình thì không thể hướng tới một mục đích tối hậu trong đời. Người đó ngừng sống cho tương lai, khác với một người có cuộc sống bình thường. Vì vậy, toàn bộ cấu trúc đời sống tinh thần của người đó cũng thay đổi; các dấu hiệu suy thoái xuất hiện, và chúng ta có thể nhận biết các dấu hiệu này trong các lĩnh vực khác của đời sống. Ví dụ, một công nhân thất nghiệp cũng ở trong tình thế tương tự. Sự tồn tại trở nên tạm bợ và chắc chắn anh ta không thể sống cho tương lai hoặc nhắm tới một mục tiêu nào đó. Công trình nghiên cứu trên các công nhân mỏ thất nghiệp cho thấy họ phải trải qua một loại thời gian méo mó kỳ lạ - thời gian tinh thần - là kết quả của tình trạng thất nghiệp. Các tù nhân cũng chịu đựng “trải nghiệm thời gian” kỳ lạ này. Trong trại, một đơn vị thời gian nhỏ nhất, ví dụ một ngày, với sự tra tấn và mệt mỏi thì dường như kéo dài vô tận. Trong khi một đơn vị thời gian lớn hơn, có thể là một tuần, lại dường như trôi qua rất nhanh. Các bạn trong trại của tôi cũng đồng ý khi tôi nói rằng một ngày dài hơn một tuần. Thật là một nghịch lý thời gian! Trong mối liên hệ này, chúng tôi nhớ tới tác phẩm Ngọn núi phù thuỷ của Thomas Mann với những nhận xét tâm lý sắc sảo. Mann đã nghiên cứu diễn biến tinh thần của những người đang trong trạng thái tâm lý tương tự, chẳng hạn như các bệnh nhân bị lao phải nằm điều trị trong bệnh viện mà không biết khi nào mới được xuất viện. Họ trải nghiệm một sự tồn tại tương tự - không có tương lai và không có mục đích.
Một trong số tù nhân đi cùng với những người tù mới trên đường từ bến xe về trại đã nói với tôi rằng anh ấy có cảm giác như đang đi trong chính đám tang của mình. Đời anh như hoàn toàn không có tương lai. Anh xem như nó đã qua và mọi chuyện đã chấm dứt như thể anh đã chết rồi. Cảm giác sống mà không phải đang sống càng được nhấn mạnh vì các nguyên nhân khác: thời gian tù đày vô định và sự gò bó về không gian trong tù.
Bất cứ thứ gì bên ngoài những hàng rào kẽm gai đều trở nên xa xôi ngoài tầm với và theo một cách nào đó là những điều không thật. Tất cả những sự kiện và con người ở ngoài đó, tất cả cuộc sống bình thường ở ngoài đó đều có vẻ ma quái đối với người tù. Cuộc sống bên ngoài hiện lên trước người đó như trước một người chết đang nhìn về từ một thế giới khác.
Một người buông xuôi vì không thể nhìn thấy tương lai và mục đích thường hay hồi tưởng về quá khứ. Trong con người tìm về quá khứ để tạo dựng một hiện tại ít đáng sợ hơn so với thực tại. Nhưng việc bỏ qua hiện thực cũng bỏ qua các cơ hội làm cho cuộc sống trong trại tích cực hơn, trong khi các cơ hội ấy là có thật. Chính cuộc sống “tồn tại tạm bợ” của chúng tôi là một nhân tố quan trọng khiến cho người tù buông xuôi, thấy mọi thứ đều trở nên vô nghĩa. Những người này quên rằng chính ngoại cảnh đặc biệt khó khăn ấy mới đem lại cho con người cơ hội phát triển vượt bậc về tinh thần. Thay vì xem những khó khăn trong trại là một bài kiểm tra sức mạnh bên trong của mình, họ đã xem nhẹ cuộc sống và cho đó là điều vô ích. Họ thích nhắm mắt và sống với quá khứ. Cuộc đời của những người này đều trở nên vô nghĩa.
Dĩ nhiên chỉ có một số người có khả năng vươn tới một tầm cao vĩ đại về tinh thần. Nhưng một vài người đã có được cơ hội để vươn tới tầm cao ấy nhờ cuộc sống trong trại tập trung, cho dù họ có phải thất bại và phải chết đi nữa; nhưng đó là điều mà trong hoàn cảnh bình thường, họ sẽ không bao giờ đạt được. Đối với những người khác trong số chúng tôi, những con người bình thường và sợ sệt thì lời nói của Bismarck[10] có thể áp dụng: “Cuộc sống giống như việc bạn đang ở chỗ nha sĩ. Bạn luôn nghĩ rằng điều tồi tệ nhất vẫn còn đang đến, thế nhưng nó đã qua mất rồi”. Theo đó, chúng ta có thể cải biên và nói rằng, hầu hết mọi người trong trại đều tin rằng cơ hội được trở lại cuộc sống thực sự của họ đã hết. Thế nhưng trên thực tế, cơ hội và thử thách vẫn còn đó. Con người có thể vượt qua những trải nghiệm đó, biến cuộc sống thành một chiến thắng cho bản thân, hoặc có thể bỏ qua thử thách và sống một cuộc sống vô vị như hầu hết những người tù khác.
Bất kỳ biện pháp nào chống lại ảnh hưởng về tâm thần ở trại lên người tù, dù bằng tâm lý trị liệu hay tâm lý thần kinh, thì cũng đều phải hướng đến việc trao cho người đó sức mạnh bên trong bằng cách chỉ ra một mục tiêu ở tương lai mà người đó có thể nhìn thấy được. Theo bản năng, một số tù nhân cố tìm kiếm một mục tiêu nào đó cho mình. Điều kỳ lạ về con người là chúng ta chỉ có thể sống bằng cách hướng về tương lai - sub specie aeternitatis. Và đây là sự cứu rỗi cho con người trong những lúc khó khăn nhất, mặc dù đôi khi ta phải buộc tâm trí mình vào nhiệm vụ đó.
Tôi nhớ lại trải nghiệm của chính mình. Gần như chảy nước mắt vì đau (bàn chân đau buốt vì những vết thương trong đôi giày rách nát), tôi lết đi nhiều cây số trong hàng người dài từ trại đến công trường. Những cơn gió lạnh buốt đập vào chúng tôi tê cóng. Tôi luôn nghĩ đến những vấn đề nhỏ nhặt, vô tận trong cuộc sống khốn khổ của mình. Tối nay tôi sẽ ăn gì? Liệu người ta có phát cho tôi thêm một ít xúc xích không, liệu tôi có nên đổi nó để lấy một mẩu bánh mỳ không? Liệu tôi có nên bán đi điếu thuốc cuối cùng còn sót lại từ phần thưởng nhận được hai tuần trước để lấy một chén xúp không? Làm sao tôi có thể kiếm được sợi dây để thay cho sợi dây giày bị đứt? Không biết tôi có đến nơi làm việc đúng giờ để nhập vào nhóm quen hay là phải nhập vào một nhóm khác và có thể gặp phải một tên quản đốc hung bạo? Tôi có thể làm gì để tạo thiện cảm với tên Capo để được hắn giúp cho vào làm trong trại thay vì phải làm việc bên ngoài và buộc phải đi bộ hàng ngày kinh khủng như thế này?
Tôi cảm thấy ghê sợ với việc mỗi ngày, mỗi giờ đều nghĩ về những việc tầm thường như thế. Tôi buộc đầu óc mình phải nghĩ đến một chủ đề khác. Bỗng nhiên tôi thấy mình đang đứng trên bục giảng trong một căn phòng sáng sủa, ấm áp và dễ chịu. Trước mặt tôi là những khán thính giả đang ngôi trên những chiếc ghế nệm êm ái và chăm chú lắng nghe. Tôi đang giảng bài về tâm lý học trong trại tập trung! Tất cả những gì đè nặng lên tôi vào lúc ấy bỗng trở thành đối tượng nghiên cứu, được xem xét và mô tả một cách khách quan từ góc nhìn khoa học. Bằng cách này, tôi đã thành công phần nào trong việc cải thiện tình hình, vượt lên trên những đau khổ mà tôi đang phải chịu đựng lúc ấy và quan sát chúng như thể chúng đã là quá khứ. Cả tôi và những khó khăn của tôi trở thành đối tượng của một đề tài nghiên cứu tâm lý thú vị do chính tôi phụ trách. Spinoza[11] đã nói gì trong tác phẩm Ethics (Đạo đức học) của mình? “Affectus, qui passio est, desinit esse passio simulatque eius claram et distinctam formamus ideam”. Cảm giác đau khổ sẽ chấm dứt ngay khi chúng ta có được một bức tranh rõ ràng và chính xác về nó.
Người tù nào mất niềm tin vào tương lai của chính mình thì coi như người đó đã chết. Với việc mất niềm tin ở tương lai, người ấy cũng đã đánh mất cả tâm hồn, bị suy sụp và rệu rã cả thể chất lẫn tinh thần. Thông thường, điều này xảy ra khá đột ngột, dưới hình thức một cuộc khủng hoảng - một triệu chứng khá quen thuộc với những tù nhân có kinh nghiệm. Chúng tôi đều sợ khoảnh khắc này - không phải chúng tôi sợ cho bản thân mình, mà sợ cho bạn bè của chúng tôi. Thông thường sự việc bắt đầu bằng việc một sáng, người tù không chịu mặc đồ, không rửa ráy hoặc không muốn tập trung ra sân. Không lời khẩn nài, cưỡng ép hay đe dọa nào có tác dụng với anh ta. Người ấy chỉ nằm đó, bất động. Nếu thảm họa này là do bệnh tật, anh ấy sẽ không chịu cho người khác đưa đến bệnh xá hoặc làm bất cứ điều gì để giúp mình. Chỉ đơn giản là anh ta muốn từ bỏ tất cả. Anh ta cứ nằm lì ra đó, bài tiết tại chỗ, và chẳng màng bận tâm đến gì cả.
Tôi có lần đã nhìn thấy một ví dụ sống động về mối quan hệ mật thiết giữa việc mất niềm tin ở tương lai và sự từ bỏ nguy hiểm này. F. - viên tự quản khối kỳ cựu của chúng tôi, một nhà thơ và nhà viết nhạc kịch khá nổi tiếng - một ngày nọ, đã kể cho tôi nghe một bí mật: “Tôi sắp kể cho cậu nghe một chuyện. Bác sĩ, tôi đã có một giấc mơ lạ. Có một giọng nói đã nói với tôi rằng nếu tôi tha thiết ước muốn được biết một điều gì đó thì những câu hỏi của tôi về điều đó sẽ được trả lời. Cậu nghĩ tôi đã hỏi điều gì? Tôi muốn biết khi nào thì chiến tranh sẽ kết thúc với tôi. Cậu biết ý của tôi là gì rồi đấy, bác sĩ - kết thúc với tôi! Tôi muốn biết khi nào chúng ta, trại của chúng ta, sẽ được giải phóng và những đau khổ này sẽ kết thúc”.
“Ông mơ thấy điều ấy khi nào?”, tôi hỏi.
“Vào tháng 2 năm 1945”, ông trả lời. Lúc ấy đã là đầu tháng 3.
“Rồi giọng nói trong giấc mơ của ông đã trả lời ra sao?” Ông thì thầm: “Ngày 30 tháng 3”.
Khi F. kể cho nghe về giấc mơ của ông, ông vẫn tràn đầy hy vọng và tin tưởng rằng giọng nói trong giấc mơ của mình sẽ trở thành sự thật. Nhưng càng đến gần ngày đó, tin tức chiến sự đến trại của chúng tôi đã cho thấy rõ ràng rằng chúng tôi sẽ không được tự do vào ngày ấy. Và ngày 29 tháng 3 năm ấy, F. bỗng nhiên trở bệnh và sốt cao. Ngày 30 tháng 3, ngày mà lời tiên tri đã nói với ông rằng chiến tranh và những đau khổ sẽ chấm dứt với ông, F. bị mê sảng và không còn biết gì nữa. Và ông mất vào ngày 31 tháng 3. Về tác nhân sinh lý bên ngoài thì ông chết vì bệnh sốt phát ban.
Người nào hiểu được mối quan hệ mật thiết giữa trạng thái tinh thần của con người - sự phấn khởi, hy vọng hoặc sự thiếu thốn những điều này - với tình trạng miễn dịch của cơ thể thì sẽ hiểu được rằng việc đột ngột mất đi những thứ đó có thể tạo ra những tác động chí mạng ra sao. Nguyên nhân quan trọng nhất tạo nên cái chết của F. là vì sự tự do ma ông ấy hằng mong đợi đã không đến, và ông bị rơi vào sự thất vọng thê thảm. Điều này làm giảm đột ngột sức đề kháng của ông trước căn bệnh vốn vẫn âm ỉ trước đấy. Niềm tin vào tương lai và ý chí sống đã bị tê liệt, cơ thể của ông trở thành miếng mồi ngon cho căn bệnh chết người - và vì vậy, tiếng nói trong giấc mơ cuối cùng cũng đúng với ông.
Những quan sát và kết luận rút ra từ trường hợp này cùng với ý kiến của bác sĩ trưởng trại đã khiến tôi chú ý. Tỷ lệ tử vong trong tuần lễ từ Giáng sinh năm 1944 đến Tết năm 1945 tăng vọt, vượt hẳn các số liệu trước đó. Theo bác sĩ trưởng trại, sự gia tăng này không phải vì điều kiện làm việc vất vả hơn hay do thức ăn thiếu thốn hơn, cũng không phải vì thay đổi thời tiết hoặc một dịch bệnh mới. Nguyên nhân đơn giản là vì đa số tù nhân đã sống với hy vọng ngây thơ rằng họ sẽ được trở lại nhà vào dịp Giáng sinh. Và khi thời gian đến gần và không có tin tức nào tốt, người tù bị nhụt chí và không gì ngăn nổi sự thất vọng ập tới. Nó tác động nguy hiểm lên sức đề kháng của họ và khiến nhiều người mất mạng.
Như tôi đã nói ở trước, muốn thành công trong bất cứ nỗ lực nào nhằm khôi phục sức mạnh bên trong của một người ở trong trại thì điều đầu tiên là phải cho người đó thấy được mục tiêu của họ ở tương lai. Câu nói của Nietzsche: “Người nào có lý do để sống thì có thể tồn tại trong mọi nghịch cảnh” có thể là kim chỉ nam cho các phương pháp điều trị và giải toả tâm lý cho người tù. Bất cứ khi nào có cơ hội đối mặt với tình huống này, ta cần phải cho những người đó một lý do - một mục tiêu - cho cuộc sống của chính họ, để gia tăng sức chịu đựng của họ trước thực tại kinh khủng trước mắt. Thảm hoạ sẽ đến với những người không nhìn thấy được ý nghĩa cuộc sống của mình, không mục tiêu, không mục đích, vì nó khiến họ không còn lý do để tiếp tục sống và sẽ nhanh chóng tự xoá đi chính sự tồn tại của mình. Một người không còn muốn nghe những lời động viên thường buông ra câu nói: “Tôi chẳng còn trông mong gì vào cuộc sống này nữa”. Làm sao có câu trả lời cho những người như thế?
Điều thật sự cần thiết là sự thay đổi cách nhìn của chúng ta về cuộc sống. Chúng ta phải tự học hỏi và hơn nữa, phải truyền dạy cho những người đang bị thất vọng một điều rằng vấn đề không phải là chúng ta mong đợi gì từ cuộc sống, mà vấn đề là cuộc sống mong đợi gì ở chúng ta. Chúng ta hãy ngưng hỏi về ý nghĩa của cuộc sống mà thay vào đó nên nghĩ về chúng ta như những người đang bị cuộc sống chất vấn - hàng ngày, hàng giờ. Câu trả lời của chúng ta không chỉ nằm trong lời nói và tâm trí, mà còn phải nằm trong cách cư xử và hành động đúng đắn. Cuộc sống của chúng ta rốt cuộc là trách nhiệm tìm ra câu trả lời thích hợp cho các vấn đề mà cuộc đời đã đặt ra và thực hiện các nhiệm vụ mà nó không ngừng giao phó.
Những nhiệm vụ này - và từ đó kéo theo ý nghĩa của cuộc sống - khác nhau ở từng người, từng giai đoạn. Do đó chúng ta không thể xác định ý nghĩa của cuộc sống theo một cách chung chung. Những câu hỏi về ý nghĩa cuộc sống không thể nào được giải đáp bằng những câu trả lời chung chung. “Cuộc sống” không mơ hồ mà nó rất thật và thực sự tồn tại, giống như những nhiệm vụ mà cuộc sống đưa ra cũng rất thật và rõ ràng. Chúng hình thành nên số phận của mỗi người, khác biệt và duy nhất cho từng cá nhân.
Không một ai hay một số phận nào có thể so sánh với bất kỳ một người nào hay một số phận nào khác. Không có tình huống lặp lại, và một tình huống đều yêu cầu được trả lời một cách khác nhau. Đôi lúc hoàn cảnh mà một người tìm thấy chính mình trong đó đòi hỏi người đó phải tạo ra số phận bằng hành động. Vào thời điểm khác, anh ta có thể sẽ có cơ hội trầm tư suy nghĩ và qua đó nhận ra những điều có giá trị. Đôi khi con người chỉ cần biết chấp nhận số phận và chịu đựng đau khổ. Mỗi hoàn cảnh có một sự khác biệt và chỉ có một câu trả lời đúng cho một vấn đề mà hoàn cảnh lúc ấy đem lại.
Khi một người nhận ra số phận của mình là phải đau khổ, anh ta sẽ chấp nhận sự đau khổ như một nhiệm vụ của mình - một nhiệm vụ duy nhất và riêng biệt. Anh ra sẽ nhận ra rằng trong đau khổ, anh ta là một sinh thể duy nhất và đơn độc của vũ trụ. Không ai có thể giải thoát anh ra khỏi sự đau khổ hoặc chịu đau khổ thay cho anh. Cơ hội duy nhất của anh ta nằm trong cách mà anh ta chịu đựng đau khổ.
Đối với chúng tôi, những tù nhân, những suy nghĩ này không phải là những suy đoán xa rời thực tế. Chúng là những suy nghĩ duy nhất có thể giúp đỡ chúng tôi. Chúng giữ cho chúng tôi khỏi tuyệt vọng, thậm chí cả khi gần như không có chút cơ hội nào. Đã rất lâu rồi chúng tôi bỏ qua giai đoạn hỏi về ý nghĩa cuộc sống bằng những câu hỏi ngây thơ - những câu hỏi được giải đáp bằng việc đạt được một số mục tiêu nào đó như là tạo ra một cái gì đó có giá trị. Đối với chúng tôi, ý nghĩa cuộc sống bám theo các vòng quay lớn hơn của sự sống và cái chết, của những đau khổ và mất mát.
Một khi chúng tôi đã hiểu được ý nghĩa của sự đau khổ, chúng tôi không muốn giảm nhẹ những đau đớn trong trại bằng cách phớt lờ chúng đi hoặc nuôi chứa những ảo tưởng sai lệch và giả bộ lạc quan. Đau khổ đã trở thành một nhiệm vụ mà chúng tôi không muốn trốn tránh nữa. Chúng tôi nhận ra các cơ hội ẩn chứa sự trưởng thành, các cơ hội mà nhà thơ Rilke[12] đã viết: “Wie vie ist aufzuleiden!” (Có biết bao đau khổ mà ta phải vượt qua!). Rilke nói về “vượt qua đau khổ” như người ta nói về “hoàn thành công việc”. Có nhiều đau khổ mà chúng tôi phải vượt qua. Vì vậy, cần phải biết đối mặt với những nỗi đau, cố gắng hạ thấp sự yếu ớt và tiết giảm những giọt nước mắt âm thầm. Nhưng khóc cũng chẳng có gì đáng xấu hổ, bởi vì nước mắt sẽ là chứng nhân cho thấy con người rất mạnh mẽ, mạnh mẽ để chịu đựng như thế nào. Chỉ rất ít người nhận ra điều đó. Thỉnh thoảng, một vài người thẹn thùng thú nhận rằng họ đã khóc, giống như một người bạn đã trả lời câu hỏi của tôi về việc làm sao anh ấy vượt qua được chứng phù nề đã thú nhận: “Tôi đã khóc rống lên”.
Sự tiếp cận đầu tiên đối với việc điều trị và giải toả tâm lý ở trong trại là hướng về hoặc cá nhân, hoặc tập thể. Những cố gắng để điều trị tâm lý cho cá nhân thường là một “quy trình cứu hộ”. Nhiệm vụ của tôi chủ yếu liên quan tới việc ngăn chặn hành vi tự sát. Trong trại có quy định nghiêm ngặt cấm bất kỳ hành vi nào cố gắng cứu một người đang cố tự sát. Ví dụ như cấm cắt dây treo cổ. Vì vậy, điều quan trọng là phải ngăn ngừa những việc này trước khi nó xảy ra.
Tôi nhớ lại hai trường hợp sắp tự tử và sự tương đồng ở mỗi trường hợp. Cả hai đều dùng những lý lẽ phổ biến - họ không còn trông mong gì về cuộc sống nữa. Trong cả hai trường hợp, điều quan trọng là phải cho họ hiểu được rằng cuộc sống vẫn còn đang trông đợi ở họ một điều gì đó ở tương lai. Với người đầu tiên, đó chính là đứa con mà anh ấy hết mực yêu thương và đang chờ anh ấy ở nước ngoài. Đối với người kia thì không phải là một con người, mà là một sự việc. Người này là một nhà khoa học. Ông đã viết rất nhiều sách và vẫn cần phải hoàn thiện các công trình ấy. Người khác không thể tiếp tục các nghiên cứu của ông, giống như không ai có thể thay thế vị trí của người cha trong tình yêu thương với đứa con.
Chính các lý do độc đáo và duy nhất ấy - ở người này là sự sáng tạo trong công việc và ở người kia là tình thương con - đã mang lại ý nghĩa cho sự tồn tại của hai tù nhân ấy. Khi nhận ra rằng không ai có thể thay thế được vị trí của mình, con người buộc phải có trách nhiệm cho sự tồn tại và tiếp tục cuộc sống của mình. Một người trở nên thức tỉnh khi thấy mình có trách nhiệm với sự trìu mến trông đợi của một ai đó, hoặc có trách nhiệm với một công việc còn chưa hoàn thành, thì người ấy sẽ không bao giờ có thể ném bỏ cuộc đời mình. Người đó hiểu được “lý do” cho sự tồn tại của mình, và sẽ có thể chịu đựng được bất cứ điều gì.
Cơ hội điều trị tâm lý cho tập thể đương nhiên là bị giới hạn trong trại. Một ví dụ thích hợp hiệu quả hơn mọi lời nói. Chỉ bằng thái độ động viện đúng mực, một viên tự quản hiếm hoi không đứng về phái ban quản lý trại đã để lại ảnh hưởng sâu sắc lên những người tù dưới quyền của ông. Hành động tức thời luôn hiệu quả hơn lời nói. Nhưng đôi khi lời nói cũng có hiệu quả khi hoàn cảnh bên ngoài tác động mạnh lên nhận thức. Tôi nhớ lại một sự việc mà tôi đã có dịp tiến hành trị liệu tâm lý cho các tù nhân ở trại nhờ vào tác động nhận thức của họ gia tăng trước hoàn cảnh bên ngoài.
Đó là một ngày tồi tệ. Trên đường đi, loa phóng thanh thông báo những trường hợp được xem như hành vi phá hoại và có thể bị trừng phạt bằng cách treo cổ ngay lập tức. Trong số các tội đó bao gồm cả những tội như cắt một miếng chăn cũ của mình (để băng mắt cá chân) và một vài hành vi “ăn cắp” rất nhỏ. Một vài ngày trước, một tù nhân vì quá đói đã phá kho chứa khoai tây và ăn trộm vài ký khoai. Vụ trộm bị phát hiện và một số tù nhân biết “tên trộm” là ai. Khi ban quản lý trại biết được vụ việc này, chúng ra lệnh giao nộp tên trộm hoặc cả trại sẽ bị bỏ đói trong một ngày. Đương nhiên rằng 2.500 người đã chấp nhận thà chịu đói trong ngày hôm đó còn hơn phải thi hành mệnh lệnh trên.
Vào buổi chiều tối của ngày hôm ấy, chúng tôi nằm trong lều của mình tâm trạng chán nản. Rất ít người nói chuyện, mà mỗi lời nói đều mang vẻ cáu kỉnh. Rồi sự việc càng tồi tệ hơn khi bị cúp điện. Nhiệt độ hạ xuống mức thấp nhất. Nhưng viên tự quản của chúng tôi là người từng trải. Ông đã nói rằng có nhiều người đã chết trong những ngày qua, cả vì bệnh lẫn vì tự tử. Và ông cũng đề cập đến điều có thể là nguyên nhân thực sự của những cái chết đó: sự mất hy vọng. Ông tiếp tục nói rằng có vài cách để phòng ngừa những nạn nhân tương lai khỏi trạng thái cực đoan này. Tôi nhận thấy rõ ràng ông đang muốn đưa ra lời khuyên.
Có trời chứng giám, lúc ấy tôi không hề có tâm trạng để giải thích tâm lý hoặc giảng nghĩa cho những người bạn tù như một kiểu chăm sóc y tế cho tinh thần. Tôi lạnh, đói, bực bội và mệt mỏi, nhưng tôi phải cố tận dụng cơ hội đặc biệt này để thực hiện nhiệm vụ của một bác sĩ tâm lý. Giờ đây, hơn lúc nào hết, các tù nhân đang rất cần sự khích lệ.
Thế là tôi bắt đầu bằng cách đề cập tới những việc có thể an ủi họ trước. Tôi nói rằng ngay cả ở Châu Âu này trong mùa đông thứ sáu của cuộc chiến thế giới thứ II, tình trạng của chúng tôi vẫn chưa phải là tồi tệ nhất. Tôi nói, mỗi người trong chúng tôi cần phải hỏi chính mình rằng những mất mát không thể nào lấy lại được từ trước tới nay là gì. Tôi tự suy ra rằng đối với hầu hết chúng tôi, những mất mát kiểu ấy thực sự rất ít. Ai còn sống là vẫn còn có lý do để hy vọng. Sức khoẻ, gia đình, hạnh phúc, công việc, vận may, vị trí xã hội - tất cả những điều này là có thể tạo dựng lại được. Vậy thì chúng ta vẫn chưa mất hết tất cả. Tất cả những gì chúng ta phải trải qua, bất kể điều gì, đều có thể trở thành tài sản cho chúng ta trong tương lai. Tôi trích dẫn câu nói của Nietzsche: “Was mich nicht umbringt, match mich stärker “. (Điều gì không đánh gục được ta sẽ khiến ta mạnh mẽ hơn).
Rồi tôi nói về tương lai. Công bình mà nói, tương lai đối với chúng tôi thật mờ mịt. Tôi đồng ý là mỗi người trong chúng tôi đều có thể thấy rằng cơ hội sống sót của chính mình là rất thấp. Với tôi, mặc dù không có dịch sốt trong trại, nhưng tôi ước tính cơ hội sống sót của mình chỉ là 1/20. Dù thế, tôi cũng không có ý định đánh mất hy vọng và bỏ cuộc. Bởi vì không ai biết tương lai sẽ đem lại điều gì. Cho dù nếu chúng tôi không nhận được tin tức chiến sự giật gân nào trong thời gian tới thì cũng chẳng sao bởi vì chẳng ai biết rõ hơn chúng tôi, với kinh nghiệm ở trại, rằng đôi khi cơ hội đến một cách bất ngờ, ít nhất là với cá nhân. Ví dụ, một người có thể tình cờ được làm việc với một nhóm đặc biệt có điều kiện lao động tốt - và đây là điều tạo nên “sự may mắn” của người tù.
Và tôi không chỉ nói về tương lai với bức màn đang bao phủ đó. Tôi còn nhắc về quá khứ, về những niềm vui và ánh sáng của nó đã lan toả như thế nào trong những thời khắc đen tối của hiện tại. Một lần nữa, tôi lại trích dẫn lời của một nhà thơ - để tránh cho lời nói của mình mang vẻ như lời truyền giáo - “Was Du erlebst, kann keine Macht der Welt Dir rauben” (Những gì bạn đã trải qua, không sức mạnh nào có thể lấy mất). Không chỉ những trải nghiệm của chúng tôi mà rất cả những gì chúng tôi đã từng làm, bất cứ suy nghĩ tuyệt vời nào chúng tôi từng có, và cả những gì chúng tôi phải chịu đựng đều không mất đi, dù nó đã là quá khứ. Nó đã nhập vào bản thể của chúng tôi. Những gì chúng tôi đã từng trải qua cũng là một phần của bản thể, và có lẽ đó là phần chắc chắn nhất.
Rồi tôi nói về những cơ hội đem lại ý nghĩa cho cuộc sống. Tôi đã nói với những người tù (những người đang nằm bất động, mặc dù thỉnh thoảng tôi có thể nghe được tiếng thở dài của họ) rằng cuộc đời của một con người, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, cũng không bao giờ mất đi ý nghĩa; và rằng ý nghĩa vô hạn của cuộc sống bao gồm cả sự chịu đựng và khát khao, thiếu thốn và cái chết. Tôi đã kêu gọi những con người tội nghiệp đang chăm chú lắng nghe trong bóng tối của dãy lều rằng hãy dũng cảm đối mặt với hoàn cảnh nghiêm trọng của mình. Họ không được mất hy vọng mà nên can đảm tin rằng sự vô vọng trong cuộc đấu tranh của chúng tôi sẽ không làm chúng tôi mất đi phẩm giá và ý nghĩa của mình. Tôi nói rằng có người đang nhìn vào chúng tôi trong những giờ phút khó khăn này - đó có thể là một người bạn, một người vợ, một ai đó còn sống hoặc đã chết, hoặc có thể là Thượng Đế - và người đó sẽ không mong đợi chúng tôi làm cho họ thất vọng. Người đó sẽ mong nhìn thấy chúng tôi đang vượt qua đau khổ một cách đầy kiêu hãnh - chứ không phải khốn khổ - và biết cách chết kiêu hãnh ra sao.
Và cuối cùng tôi nói về sự hy sinh của chúng tôi và ý nghĩa của sự hy sinh ấy. Bản chất của sự hy sinh này không hề có ý nghĩa trong một thế giới bình thường, thế giới của những thành công vật chất. Nhưng trong thực tại, sự hy sinh của chúng tôi không vô nghĩa. Những ai có niềm tin vào tôn giáo thì sẽ dễ dàng hiểu được điều tôi đang nói. Tôi kể cho mọi người nghe câu chuyện về một người tù trên đường đến trại đã có lời nguyện cầu với Thượng Đế rằng hãy để những đau khổ và cái chết của anh ấy cứu được những người mà anh ấy yêu thương khỏi kết cục đau đớn. Đối với người này, sự chịu đựng và cái chết là có ý nghĩa; đó là sự hy sinh mang ý nghĩa sâu sắc nhất. Anh ấy không muốn chết vô ích. Không một ai trong chúng ta muốn điều ấy.
Mục đích của những lời tôi nói là để tìm ra một ý nghĩa đầy đủ cho cuộc sống của chúng tôi, trong tương lai và ở ngay tại nơi đó - trong dãy lều ấy và trong tình trạng vô vọng ấy. Và tôi thấy những cố gắng của mình đã thành công. Khi có điện trở lại, tôi thấy những con người tội nghiệp bước khập khiễng về phía tôi, cám ơn tôi với những giọt nước mắt lăn dài trên má. Nhưng tôi phải thú nhận rằng rất hiếm khi tôi có can đảm nói với bạn tù về những nỗi đau khổ như thế, và hẳn là tôi đã bỏ qua nhiều cơ hội để làm điều ấy.
Chúng ta hiện đang ở giai đoạn ba trong chuỗi phản ứng tâm lý của người tù: tâm lý của người tù sau khi tự do. Nhưng trước tiên, chúng ta nên xem xét câu hỏi mà một chuyên gia tâm lý thường được hỏi, nhất là khi người đó đã từng kinh qua hoàn cảnh này: Ông có thể nói gì về bản chất tâm lý của những người lính canh trong trại? Làm sao con người bằng xương bằng thịt có thể đối xử với đồng loại theo cách mà nhiều người tù đã bị đối xử? Ai đã từng nghe những chuyện này thì sẽ giật mình muốn biết về mặt tâm lý, vì sao những chuyện ấy lại có thể xảy ra. Để trả lời câu hỏi này mà không đi quá nhiều vào chi tiết, có một số điều cần được nêu ra:
Thứ nhất, trong số những người lính canh, có một số kẻ rất tàn bạo, tàn bạo một cách bệnh hoạn.
Thứ hai, khi cần có các lính canh tay sai độc ác, những tên tàn bạo này luôn là những ứng viên sáng giá.
Có một niềm vui to lớn ở nơi làm việc khi chúng tôi được phép tự làm ấm mình trong vài phút (sau hai giờ làm việc trong băng giá) trước một cái lò sưởi được đốt bằng các cành cây nhỏ và gỗ vụn. Nhưng luôn có một số tay quản đốc tìm thấy niềm vui khi tước đi niềm an ủi này của chúng tôi. Khuôn mặt chúng toát lên sự khoái trá rõ rệt khi chúng không chỉ cấm chúng tôi đứng ở đó mà còn ra tay lật úp cái lò và vùi ngọn lửa ấm áp vào trong tuyết lạnh! Khi một tên lính SS không thích một người nào đó, hắn luôn có một danh sách những tên tay sai đặc biệt có hứng thú tra tấn người khác và cũng rất chuyên nghiệp trong việc này, những nạn nhân khốn khổ sẽ được giao vào tay những kẻ khát máu ấy.
Thứ ba, cảm giác của đa số lính canh ngày càng trở nên chai sạn theo năm tháng vì phải chứng kiến nhiều kiểu hành hạ dã man ở trại. Những kẻ chai sạn về đạo đức và tâm hồn đó dù không chủ động tham gia vào các biện pháp tàn bạo thì cũng không ngăn kẻ khác thực hiện việc đó.
Thứ tư, cần phải nói rằng trong số những chỉ huy / lính gác vẫn có người thương cảm cho chúng tôi. Tôi không thể nào quên vị chỉ huy của cái trại cuối cùng trước khi tôi được trả tự do. Sai giải phóng, mọi người mới biết được rằng vị chỉ huy thuộc đội lính SS này đã bỏ một số tiền không nhỏ của mình để mua thuốc cho tù nhân từ một khu chợ gần nhất, còn trước đó, chỉ có một vị bác sĩ trong trại vốn cũng là một tù nhân biết chuyện[13]. Nhưng tên tự quản cấp cao của trại, cũng là một tù nhân, lại khắc nghiệt hơn bất cứ lính SS nào. Hắn thích thú đánh đập những người tù khác mỗi khi có dịp, trong khi vị chỉ huy trại, theo tôi biết, lại không bao giờ đưa tay đánh bất cứ người nào trong chúng tôi cả.
Rõ ràng là lời kể của một người, dù người đó là lính canh hay tù nhân, đều không thể toàn diện. Lòng tốt của con người có thể được tìm thấy ở mọi nhóm người, thậm chí cả những nhóm mà nhìn chung rất dễ bị lên án. Ranh giới giữa các nhóm lại chồng chéo nhau, và chúng ta phải cố gắng tránh việc đơn giản hoá vấn đề bằng cách cho rằng nhóm người này là thiên thần và nhóm kia là ác quỷ. Chắc chắn việc bất chấp những tác động trong trại để một lính gác hoặc một quản đốc đối xử tốt với người tù xứng đáng được xem như một điểm son đáng kể. Ngược lại, việc một người tù đối xử với các bạn của mình tệ bạc là một điều cực kỳ đáng khinh. Rõ ràng tù nhân khinh bỉ những người như vậy, trong khi họ thực sự xúc động trước lòng tốt, dù là nhỏ nhất, của bất kỳ một người lính canh nào. Tôi vẫn nhớ cảm giác của mình khi một quản đốc lén cho tôi mẩu bánh mì mà tôi biết anh ấy phải để dành từ khẩu phần ăn sáng của mình. Lúc đó, không phải mẩu bánh mì ấy khiến tôi xúc động và bật khóc mà chính vì một “điều gì đó” rất nhân văn mà anh ấy đã trao cho tôi - trong lời nói và cách nhìn kèm với món quà.
Từ tất cả những điều này, chúng ta có thể thấy rằng có hai loại người trên thế giới này, và chỉ có hai loại người ấy mà thôi: “loại” người tốt và “loại” người xấu. Cả hai loại người này đều có thể bắt gặp ở mọi nơi; họ có mặt trong tất cả các nhóm xã hội. Không có nhóm nào bao gồm toàn người tốt và cũng không có nhóm nào chỉ toàn những người xấu cả. Như vậy, không có nhóm nào là “thuần chủng” - và bởi vậy đôi khi người ta thấy có một người tử tế trong số lính canh.
Cuộc sống trong trại tập trung đã mở toang tâm hồn con người và phơi bày những điều sâu thẳm nhất. Chẳng ngạc nhiên sao khi trong những điều sâu thẳm ấy, chúng ta một lần nữa lại nhìn thấy những đặc tính của con người mà bản chất thật sự của nó là sự hoà trộn giữa cái tốt và cái xấu? Sự phân hoá tốt xấu, vốn diễn ra xuyên suốt trong đời sống nhân loại, đã đạt tới chỗ sâu sắc nhất và càng trở nên rõ ràng ở ngay dưới đáy vực mà trại tập trung đã mở ra.
Và giờ đây là giai đoạn cuối của tâm lý người tù ở trại tập trung - tâm lý của những người tù sau khi đã được trả tự do. Để miêu tả về những trải nghiệm này, chúng tôi sẽ thuật lại vài chi tiết về buổi sáng mà lá cờ trắng được kéo lên cổng trại sau nhiều ngày căng thẳng tột độ. Trạng thái căng thẳng chờ đợi cuối cùng cũng được thay thế bằng cảm giác nhẹ nhõm. Nhưng nếu có ai đó nghĩ rằng chúng tôi đã điên lên vì vui sướng thì họ đã lầm. Vậy thì mọi sự diễn ra như thế nào?
Đám tù nhân chúng tôi mệt mỏi lê bước đến cổng trại, bối rối nhìn xung quanh và nhìn nhau đầy nghi ngại. Rồi chúng tôi mạo hiểm tiến thêm vài bước ra khỏi cổng. Lần này không có mệnh lệnh nào quát vào chúng tôi và chúng tôi cũng không cần hụp đầu né tránh những làn roi hoặc cú đá. Thật ngoài sức tưởng tượng! Lần này, những người lính canh mời chúng tôi thuốc lá! Lúc đầu chúng tôi khó mà nhận ra họ; họ đã nhanh chóng đổi sang trang phục thường dân. Chúng tôi chậm chạp đi bộ dọc theo con đường dẫn ra khỏi trại. Chẳng lâu sau, chân bị đau và có vẻ muốn sưng nhưng chúng tôi vẫn khập khiễng bước tiếp; chúng tôi muốn nhìn thấy quang cảnh xung quanh trại lần đầu tiên với đôi mắt của người tự do. “Tự do” - chúng tôi tự nhắc lại mãi với chính mình mà vẫn chưa thể nắm bắt được ý nghĩa của nó. Chúng tôi đã nói từ này không biết bao nhiêu lần trong suốt những tháng năm mơ về nó, đến nỗi nó đã mất đi ý nghĩa thực sự. Thực tại tự do lúc ấy không thẩm thấu được vào nhận thức của chúng tôi; chúng tôi không thể tin rằng mình đã được tự do.
Chúng tôi tiến vào một cánh đồng đầy hoa. Nhìn thấy và biết rằng chúng ở đó, nhưng chúng tôi không có cảm giác gì về thực tại ấy. Cảm giác vui sướng đầu tiên xuất hiện khi chúng tôi nhìn thấy một chú gà trống với bộ lông đuôi sặc sỡ. Nhưng đấy chỉ là một tia sáng loé lên; chúng tôi vẫn chưa thuộc về thế giới này.
Vào buổi chiều khi tất cả chúng tôi gặp lại nhau, một người thầm hỏi người bên cạnh: “Nói tôi nghe, hôm nay anh có vui không?”
Và người kia trả lời, hơi xấu hổ vì anh ấy không biết rằng chúng tôi đều cảm thấy như thế. “Thật sự là không!”. Chúng tôi đã mất đi khả năng cảm thấy vui vẻ; và để có lại được cảm giác này, chúng tôi phải học lại từ từ.
Về mặt tâm lý, những gì đang xảy ra đối với những người tù tự do có thể được xem là “trạng thái mất nhân cách”. Mọi thứ xuất hiện không thật, tất cả giống như trong một giấc mơ. Chúng tôi không thể tin đó là sự thật. Đã bao lần trong quá khứ chúng tôi đã bị những giấc mơ lừa dối! Chúng tôi đã mơ rằng ngày tự do sẽ đến, rằng chúng tôi sẽ được tự do, sẽ được trở về nhà, gặp lại bạn bè, ôm người vợ thương yêu trong tay, ngồi tại bàn và bắt đầu nói về những sự việc mà chúng tôi đã trải qua - không biết đã bao nhiêu lần chúng tôi nằm mơ thấy cái ngày tự do này. Và rồi - một tiếng còi lệnh rít lên ngang tai, đánh thức chúng tôi dậy để bắt đầu một ngày khổ sai, chấm dứt những giấc mơ về tự do. Và giờ thì giấc mơ đã thành sự thật. Nhưng chúng tôi có thể nào tin được giấc mơ đó chăng?
Cơ thể ít bị ức chế hơn tâm trí. Nó đã sử dụng quyền tự do ngay từ giây phút đầu tiên. Nó bắt đầu bằng việc ăn ngấu nghiến trong nhiều giờ, nhiều ngày, thậm chí cả vào lúc nửa đêm. Thật ngạc nhiên về số lượng thức ăn mà một người có thể ăn được. Và khi một tù nhân được một người nông dân thân thiện sống gần đó mời dùng bữa, anh ấy sẽ ăn và ăn, rồi uống cà phê cho đến khi lưỡi trơn tru, và bắt đầu nói huyên thuyên trong nhiều giờ liền. Áp lực đè nặng trong tâm trí anh ấy trong nhiều năm cuối cùng cũng được trút bỏ. Lắng nghe anh ấy nói, ta sẽ có cảm giác rằng anh ấy phải được nói, rằng khát khao được nói là điều không thể cưỡng lại được. Tôi biết những người chịu áp lực nặng nề chỉ trong một thời gian ngắn (ví dụ, thông qua một cuộc kiểm tra chéo do Gestapo tiến hành) cũng có các phản ứng tương tự. Nhiều ngày trôi qua, cho đến khi không chỉ có chiếc lưỡi hoạt động mà dường như tất cả các bộ phận trong cơ thể đều muốn lên tiếng; và rồi cảm giác bỗng nhiên vỡ oà, phá vỡ những xiềng xích kỳ lạ đã trói buộc nó.
Một hôm, vài ngày sau khi được tự do, tôi đi bộ qua đồng cỏ đầy hoa kéo dài nhiều dặm hướng về khu chợ trị trấn ở gần trại. Tôi có thể nghe tiếng hót vui tươi của những con chim chiền chiện đang bay lượn trên bầu trời. Tôi không nhìn thấy người nào khác trong nhiều dặm xung quanh; không có gì ngoài mặt đất và bầu trời rộng mở, sự vui vẻ của những chú chim và khung trời tự do. Tôi dừng lại, nhìn xung quanh, ngước lên trời - và rồi khuỵ xuống. Vào giây phút ấy, tôi biết rất ít về mình hoặc về thế giới ngoại trừ một câu nói cứ vang vang trong đầu: “Tôi đã gọi tên Chúa từ trong ngục tù nhỏ hẹp, và Người đã trả lời tôi trong khoảng không tự do”.
Tôi đã quỳ ở đó và lặp lại câu nói ấy bao lâu thì tôi cũng không nhớ nữa. Nhưng tôi biết rằng vào ngày hôm đó, cuộc đời mới của tôi đã bắt đầu. Từng bước từng bước một, tôi tiến lên cho đến khi một lần nữa được trở lại làm người.
Quá trình chuyển biến tâm lý vô cùng phức tạp ở người tù trong những ngày cuối ở trại (từ cuộc chiến thần kinh căng thẳng cho đến sự bình thản về tinh thần) chắc chắn không tránh khỏi trở ngại. Thật sai lầm khi nghĩ rằng người tù không cần được chăm sóc tâm lý sau khi đã được tự do. Chúng ta cần xem xét việc một người, vốn đang chịu áp lực kinh khủng trong một thời gian dài, sẽ gặp nguy hiểm sau khi tự do như thế nào, nhất là khi áp lực ấy đột ngột biến mất. Nguy hiểm này (theo ý nghĩa của phương pháp giải toả tâm lý) là một bản sao tâm lý nghịch đảo. Giống như việc người thợ lặn sẽ gặp nguy hiểm nếu anh ấy bất ngờ rời khỏi khoang lặn (dưới áp lực không khí cực thấp). Tương tự, việc một người đột nhiên thoát khỏi áp lực tinh thần có thể ảnh hưởng đến sức khoẻ tâm lý và vấn đề đạo đức.
Trong giai đoạn tâm lý này, ta thấy rằng ngay cả những người có bản chất hiền lành cũng không thoát khỏi ảnh hưởng của sự tàn bạo ở khắp nơi trong trại. Giờ đây, khi được tự do, họ cho rằng mình có quyền sử dụng sự tự do ấy một cách phóng túng và vô độ. Đối với họ, điều duy nhất thay đổi chính là giờ đây, họ không còn là kẻ bị áp bức nữa mà là người đàn áp. Họ trở thành chủ thể chứ không phải là đối tượng của sự ngang trái và bất công. Họ bào chữa cho hành vi của mình bằng những trải nghiệm tồi tệ của họ. Điều này thường được thể hiện rõ trong những sự việc bình thường. Chẳng hạn, tôi và một người bạn đang đi ngang qua cánh đồng hướng về trại thì bỗng nhiên chúng tôi gặp một đồng lúa đang mùa thu hoạch. Theo phản xạ, tôi tránh đi nhưng anh ấy kéo tay và lôi tôi băng qua. Tôi lắp bắp về việc đừng giẫm vào đồng lúa. Thế là anh ấy bực bội nhìn tôi và giận dữ hét lên: “Anh thôi đi! Chúng ta bị mất mát như vậy chưa đủ hay sao? Vợ và con tôi đều bị chết ngạt - chưa tính đến mọi thứ khác nữa - vậy mà anh lại cấm tôi đạp lên mấy cây lúa này ư?”.
Những người này chỉ có thể được hướng dẫn từ từ để quay về với chân lý rằng không ai có quyền làm sai, ngay cả khi bản thân họ từng phải hứng chịu sự bất công từ người khác. Chúng tôi phải đấu tranh để đưa họ về với chân lý này, nếu không hậu quả sẽ còn tồi tệ hơn nhiều so với thiệt hại của vạt lúa kia. Tôi vẫn nhớ một người tù đã xắn tay áo, dứ nắm đấm trước mũi tôi và hét lên: “Nếu bàn tay tôi không nhuốm máu khi trở về nhà thì cầu cho nó bị chặt phăng đi!”. Tôi muốn nhấn mạnh một điều rằng người đã nói những lời này không phải là một kẻ xấu. Anh ấy là một trong số những người tù tốt nhất trong trại và cả trong cuộc sống sau này.
Ngoài sự suy đồi về đạo đức do bỗng nhiên thoát khỏi áp lực tinh thần, có hai trải nghiệm cơ bản đe doạ làm hỏng tính cách của người tù sau khi được tự do: sự cay đắng và vỡ mộng khi anh ta trở lại với cuộc sống trước kia của mình.
Sự cay đắng là do những gì mà người đó nhìn thấy tại quê nhà. Lúc trở về, đâu đâu anh ra cũng chỉ thấy những cái nhún vai và bao giọng điệu chán nản, anh ta chua chát tự hỏi vì sao mình lại phải chịu đựng tất cả những điều đó. Khi nghe những câu nói tương tự nhau ở khắp mọi nơi: “Chúng tôi không biết việc đó”. “Chúng tôi cũng đau khổ”, anh ta tự hỏi, liệu họ không có gì hay ho hơn để nói với mình hay sao?
Trải nghiệm vỡ mộng lại hoàn toàn khác. Ở đây, anh ta bỗng dưng cảm thấy mình thật lạc lõng, không có ai chào đón mình cả (cảm giác cô độc đó khủng khiếp đến nỗi cuối cùng anh ta có cảm giác muốn trốn tránh tất cả và cũng không muốn nghe hay biết gì về thế giới xung quanh nữa) và số phận dường như quá cay nghiệt. Một người trong nhiều năm đã nghĩ rằng mình đã chạm đến giới hạn cùng cực của mọi đau khổ, thì giờ đây lại thấy rằng đau khổ là vô hạn, và rằng mình đang phải đối diện với nhiều khổ đau kinh khủng hơn.
Khi nói về những nỗ lực khích lệ tinh thần đối với một người ở trại, chúng ta thấy rằng cần phải cho anh ấy thấy một điều gì đó để trông chờ ở tương lai: răng cuộc sống cẫn còn trông chờ vào anh ấy, rằng vẫn có người đang chờ đợi anh ấy trở về. Nhưng đằng sau cánh cửa tự do là gì? Một số người đã nhận ra là không có ai chờ đợi họ cả. Nỗi đau ập đến khi người đó thấy rằng người mà kỷ niệm về họ đã tiếp thêm nghị lực cho anh ấy ở trại đã không còn sống nữa! Nỗi đau ập đến khi người đó phát hiện ra sự khác biệt quá lớn giữa hiện thực với những gì anh ấy từng mơ ước! Lẽ nào anh ấy bắt một chuyến tàu trở về nhà - rồi nhấn chuông đúng như điều anh đã khao khát làm trong hàng ngàn giấc mơ, chỉ để biết rằng người đáng lẽ sẽ ra mở cửa cho anh ấy đã không còn ở đó, và sẽ không bao giờ ở đó nữa.
Ở trong trại, chúng tôi đều nói với nhau rằng có lẽ trên đời này không còn niềm vui nào có thể bù đắp được cho tất cả những gì chúng tôi đã phải chịu đựng. Chúng tôi không hy vọng gì về hạnh phúc - đó không phải là điều giúp cho chúng tôi thêm nghị lực cũng như cảm thấy những đau khổ, hy sinh và chết chóc của mình là có ý nghĩa. Thế nhưng chúng tôi cũng chưa chuẩn bị cho những bất hạnh. Sự vỡ mộng này xảy ra ở hầu hết tù nhân và là một trải nghiệm rất khó vượt qua. Đây cũng là những ca khó đối với các chuyên gia tâm lý nhưng nó không làm họ nản lòng mà ngược lại, là một tác nhân kích thích họ tìm cách giải quyết vấn đề.
Đối với những người tù đã được tự do, đến một lúc nào đó nhìn lại những trải nghiệm ở trong trại tập trung, họ cũng không thể hiểu được vì sao mình có sức chịu đựng đến mức ấy. Và cuối cùng ngày tự do thật sự của họ cũng đến khi họ thấy mọi điều hiện tại quanh mình hiện lên như một giấc mơ đẹp và những trải nghiệm trong trại chỉ còn là một cơn ác mộng.
Đối với những người được trở về nhà, vượt trên tất cả chính là cảm giác tuyệt vời rằng sau mọi điều đã phải chịu đựng, họ chẳng còn gì phải sợ nữa ngoại trừ Đức Chúa ở trong lòng mình.
____________
Chú thích
[9] Arthur Schopenhauer (1788 − 1860): Nhà triết học duy tâm người Đức,nổi tiếng với tác phẩm “The world as Will and Representation” (Thế giới như là ý chí và biểu tượng).
[10] Otto von Bismarck (1815 − 1898): Thủ tướng đầu tiên của Đế chếĐức, người có ảnh hưởng lớn tới lịch sử cận đại châu Âu.
[11] Benedictus de Spinoza (1633 − 1677): Nhà triết học người Hà Lan gốcDo Thái, được xem là người đã đặt nền móng cho thời kỳ Khai sáng ở thế kỷ 18.
[12] Rainer Maria Rilke (1875 − 1926): Nhà thơ người Áo viết bằng tiếngĐức, được xem là một trong những nhà thơ lớn nhất của thế kỷ 20.
[13] Tình cờ tôi được biết thêm một chuyện thú vị liên quan đến vị chỉ huy thuộc đội lính SS này, qua đó cho thấy ông được các tù nhân Do Thái trong trại tập trung rất kính trọng. Sau khi chiến tranh kết thúc, quân đội Mỹ đến giải phóng cho các tù nhân trong trại tập trung của chúng tôi. Ba tù nhân Do Thái gốc Hung đã giấu vị chỉ huy này trong một khu rừng ở Bavaria. Sau đó, họ đến báo cáo với vị sĩ quan chỉ huy quân đội Mỹ phụ trách khu vực của chúng tôi - vị này đang tìm mọi cách truy lùng người chỉ huy thuộc đội lính SS kia - rằng họ sẽ giao nộp vị chỉ huy SS với điều kiện: vị chỉ huy quân đội Mỹ phải cam kết là sẽ bảo đảm an toàn tính mạng cho vị trưởng trại kia. Sau một hồi suy nghĩ, người chỉ huy phía bên quân Mỹ cuối cùng cũng đồng ý với ba tù nhân Do Thái gốc Hung kia. Và trên thực tế, vị chỉ huy quân đội Mỹ không chỉ thực hiện đúng lời hứa của mình mà người cựu chỉ huy SS của trại chúng tôi còn được phục chức, bởi vì ông ấy đã giám sát việc thu gom tất cả quần áo, trang phục từ các thôn làng tại Bavaria, sau đó phân phát cho tất cả tù nhân chúng tôi. Lúc đó chúng tôi vẫn khoác trên mình những bộ quần áo chúng tôi được kế thừa từ những người bạn tù đã nằm xuống vĩnh viễn tại Auschwitz, họ đã không may mắn như chúng tôi, họ đã không thể đợi được đến ngày này, đó là những người đã bị đưa thẳng đến lò hơi ngạt khi vừa bước xuống sân ga xe lửa ngay buổi sáng đầu tiên đến trại.(Chú thích của tác giả)